Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam đã thực hiện nghiên cứu diễn biến nguồn nước, chất lượng nước vùng nuôi thủy sản, trồng trọt ven biển Đồng bằng Sông Cửu Long, để từ đó đưa ra các giải pháp khai thác thích hợp, hạn chế rủi ro do hạn mặn cho khu vực này.
Trong những năm qua, nhất là sau các năm hạn nghiêm trọng gần đây, nhiều nghiên cứu về ĐBSCL đã được triển khai, trong đó có một số nghiên cứu về nguồn nước và xâm nhập mặn. Các nghiên cứu đã đi vào một số vấn đề nguồn nước, nhất là trong mùa khô, cùng với các mô hình sản xuất. Tuy vậy, chưa có nghiên cứu đánh giá toàn diện về nguồn nước cho cả hiện tại và tương lai của ĐBSCL nói chung và vùng ven biển nói riêng. Trước thực tế đó, Bộ KH&CN giao Viện Khoa học Thủy lợi Miền Nam thực hiện đề tài KH&CN cấp Quốc gia (KC08-25/16-20) “Nghiên cứu diễn biến nguồn nước, chất lượng nước và đề xuất các giải pháp khai thác thích hợp nhằm nâng cao hiệu quả và hạn chế rủi ro thiên tai (hạn mặn) vùng nuôi thủy sản, trồng trọt ven biển ĐBSCL”.
Đề tài đã dùng các phương pháp nghiên cứu như khảo sát điều tra thực tế và thí nghiệm; chuyên gia (tham khảo tài liệu, chuyên gia, tham vấn, hội thảo); phân tích thống kê, xác suất; mô hình hóa. Qua đó, đã xác định được các yếu tố chính tác động đến nguồn nước ven biển ĐBSCL, bao gồm dòng chảy thượng lưu về Đồng bằng, triều biển, sử dụng nước trên Đồng bằng (lấy nước phục vụ kinh tế xã hội, xả thải), địa hình (lún, biến đổi lòng dẫn).
Theo nghiên cứu, chất lượng nước trên sông Cửu Long và các vùng gần sông, cửa sông hiện còn tốt. Tuy nhiên, ở các vùng xa sông, gần biển, cuối các vùng ngọt hóa, chất lượng nước bị suy giảm, nhiều vùng không đạt các QCVN 08.2015. Với việc suy giảm lũ trong hiện tại và tương lai, phần thượng ĐBSCL (vùng ngập lũ thuộc các tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Long An, Kiên Giang, Tiền Giang, Vĩnh Long) cần điều chỉnh lại mô hình canh tác theo hướng chủ động sản xuất quanh năm.
Bên cạnh đó, đề tài đã xác định các vùng thích hợp chuyển đổi sản xuất, hướng chính vẫn là chuyển từ sinh thái ngọt (trồng trọt) sang mặn/lợ (hoặc lợ-ngọt luân phiên). Đồng thời, thiết kế hạ tầng cho 2 vùng chuyển đổi là vùng ngọt ven biển Đông (phía bắc Quốc lộ 1A tỉnh Bạc Liêu) và vùng ngọt ven biển Tây (huyện Hòn Đất, Kiên Giang).
Kết quả nghiên cứu còn cho thấy, dưới các tác động của biến đổi khí hậu, nước biển dâng và lún sụt đất, ĐBSCL sẽ có mức ngập lớn trong tương lai, đặc biệt là các vùng ven biển (Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng,…), với độ sâu ngập có thể lên tới 1,5-2m vào năm 2050 và 2,5-3m vào năm 2100.
Kết quả của đề tài về giải pháp công trình phục vụ cho đảm bảo nguồn nước vùng ven biển đã được Bộ NN&PTNT đưa vào kế hoạch xây dựng hạ tầng phục vụ sản xuất ĐBSCL giai đoạn trung hạn 2021-2025, bao gồm: Dự án Thủy lợi tổng hợp Nam Quốc lộ 1A tỉnh Bạc Liêu; Cụm công trình Tắc Thủ đảm bả nguồn nước cho vùng Bắc Cà Mau; Đề xuất xây dựng trạm bơm điện Đại Ngãi cấp nước bổ sung cho vùng Long Phú - Trần Đề tỉnh Sóc Trăng.
Bộ công cụ mô hình thủy động lực ĐBSCL và phương pháp dự báo dòng chảy thượng lưu do đề tài xây dựng, đã được Bộ NN&PTNT sử dụng để chỉ đạo sản xuất ở ĐBSCL hằng năm. Đặc biệt, mô hình dự báo nguồn nước đã được sử dụng rất hiệu quả trong dự báo hạn mặn, với độ tin cậy cao, trong mùa hạn mặn lịch sử 2019-2020, giúp Chính phủ, Bộ NN&PTNT chỉ đạo chống hạn mặn thành công. Trong đó, đóng góp chính là mô hình đã dự báo hạn mặn rất sớm, từ tháng 9/2019, giúp Bộ NN&PTNT và địa phương dịch chuyển lịch canh tác vụ Đông Xuân gần 1 tháng ở vùng ven biển, nhờ đó tránh được hạn mặn.
Đề tài đã được Hội đồng KH&CN cấp Nhà nước tổ chức nghiệm thu vào đầu tháng 7 vừa qua.