Ngày nay, bôi kem chống nắng để bảo vệ làn da khỏi tia UV, ngăn ngừa lão hóa và phòng chống ung thư là một thói quen thường nhật của đa số chúng ta. Nhưng, bạn đã bao giờ tự hỏi kem chống nắng ra đời thế nào?

Chống nắng thời cổ đại

Tổ tiên Homo sapienscủa chúng ta ở châu Phi có làn da ngăm đen, nhờ sắc tố melanin tự nhiên mà họ không bị cháy nắng. Khi họ di cư dần dần lên phía Bắc, vào khoảng năm 60.000 TCN, những cư dân này chuyển sang một khí hậu khác biệt, lạnh hơn và bức xạ Mặt trời thấp hơn. Vì thế, họ bắt đầu khoác lên mình lớp da của những con vật mà họ săn làm thức ăn. Lớp da này không chỉ giúp họ chống chọi cái rét mà còn bảo vệ họ khỏi ánh nắng, và con người chậm rãi mất đi sắc tố da tự nhiên vốn có tác dụng như kem chống nắng.

Sau này, các cộng đồng cổ đại ở Trung Đông và Ai Cập đã biết cách đan sợi thực vật như lanh thành vải và may quần áo để bảo vệ cơ thể. Nhưng khi Cơ đốc giáo và các quan điểm tôn giáo cực đoan của Tòa án dị giáo lên ngôi, cơ thể con người trở thành thứ tội lỗi và phải che kín hoàn toàn. Tình hình này tiếp diễn với rất ít thay đổi cho tới thế kỷ 19 và thời đại Victoria.

Chống nắng thời hiện đại


Và rồi chúng ta đến thế kỷ XX và Thế chiến Thứ I nổ ra. Khi cuộc chiến kết thúc, làn da trắng không còn là thứ hấp dẫn nữa. Bởi lẽ, trong kỷ nguyên mới mở ra sau đó, người dân mong muốn sống trong hòa bình, trải nghiệm các cảm giác mới mẻ và tận hưởng trọn vẹn cuộc sống. Tắm nắng trở thành hoạt động thời thượng và làn da rám nắng đồng nghĩa với sức khỏe tốt. Làn da vẫn chưa được bảo vệ bằng bất kỳ màng lọc tia UV nào, mà chỉ được hỗ trợ tái tạo độ ẩm bằng nhũ tương với sản phẩm đầu tiên là Nivea Crème.

Vào khoảng năm 1930, các loại dầu xuất hiện như mỹ phẩm “bảo vệ” cơ thể, nhưng thực ra chúng không có tác dụng bảo vệ làn da khỏi bức xạ Mặt trời. Trong chuyến du hành trên chiếc thuyền L’Edelweiss, Eugene Schueler (người sáng lập hãng mỹ phẩm L’Oreal) đã thử nghiệm các loại dầu có mặt trên thị trường vào thời điểm ấy trong lúc tắm nắng, và không có sản phẩm nào khiến ông hài lòng. Ông đã giao nhiệm vụ này cho các nhà hóa học của phòng thí nghiệm L’Oréal. Vào tháng 4/1935, họ tặng ông một loại ‘dầu chống nắng’ có chứa benzyl salicylate là thành phần hoạt tính, cùng loại hóa chất được sử dụng trong kem chống nắng hóa học đầu tiên năm 1928. Được sử dụng rộng rãi trong ngành mỹ phẩm như một thành phần của nước hoa, benzyl salicylate hoạt động bằng cách hấp thụ hoặc lọc ra tia UVB, bức xạ gây bỏng da. Hai tháng sau, Schueler tung sản phẩm ra thị trường với tên gọi Ambre Solaire, nó đã thay thế các công thức cũ tự làm dùng dầu olive và cồn iod. Các thương hiệu khác cũng bắt đầu sản xuất các sản phẩm tương tự.

Chai dầu chống nắng Ambre Solaire. Nguồn: Hiệp hội Dược phẩm Hoàng gia Anh
Chai dầu chống nắng Ambre Solaire. Nguồn: Hiệp hội Dược phẩm Hoàng gia Anh

Kem chống nắng đầu tiên được sử dụng phổ biến do Benjamin Green sản xuất vào năm 1944 vào thời điểm cao trào của Thế chiến Thứ II, khi những người lính đóng quân ở Thái Bình Dương bị cháy da khi phơi mình dưới cái nắng gay gắt. Sản phẩm này không có quá nhiều hiệu quả, nó giống như một lớp chặn vật lý bức xạ tia UV. Loại kem này màu đỏ và dinh dính giống như sáp dầu khoáng. Doanh số sản phẩm bùng nổ khi Coppertone – thương hiệu chăm sóc da chống nắng đầu tiên của Mỹ – mua lại bằng sáng chế và tiếp thị sản phẩm này.

Kem chống nắng hiệu quả đầu tiên có thể do nhà hóa học Franz Greiter phát triển vào năm 1946. Sản phẩm mang tên Gletscher Créme và nó trở thành nền tảng cho Công ty Piz Buin, hiện nay công ty này vẫn là nhà tiếp thị các sản phẩm kem chống nắng. Vào năm 1956, tiến sĩ Rudolf Schulze đã đưa ra khái niệm SPF (viết tắt của Sun Protection Factor), đây là chỉ số đo lường khả năng bảo vệ da khỏi tia UV. Chỉ số càng cao thì tia UV đi qua càng ít. Và sản phẩm của Greiter được đánh giá SPF 2, tức là nó không có quá nhiều tác dụng.

Vào đầu những năm 1980, Úc là nước đầu tiên, sau đó là hầu hết các quốc gia khác, đã chấp nhận định nghĩa SPF là “tỷ lệ năng lượng tia UV cần thiết để gây ra lượng ban đỏ tối thiểu trên da được bảo vệ so với da không được bảo vệ” và là tiêu chuẩn để thử nghiệm các công thức kem chống nắng.

Sau Thế chiến II

Một nghiên cứu trên tạp chí Consumer Report từ cuối những năm 1940 cho thấy trong 61 sản phẩm chống nắng, chỉ có 5 loại có khả năng bảo vệ xuất sắc, 13 loại bảo vệ tốt, còn 31 loại không hề bảo vệ người dùng. Điều thú vị là ở thời đó, sản phẩm được đánh giá là “tốt” khi nó bảo vệ được người dùng ít nhất 2 tiếng đồng hồ, theo người sáng lập Hiệp hội các nhà hóa học mỹ phẩm Maison G. de Navarre. Trong một bài báo khác trích dẫn từ cùng tạp chí, nhà hóa học mỹ phẩm I.R. Hollenberg viết vào năm 1955: “Nguyên tắc cơ bản trong công thức chống nắng là phát triển một sản phẩm mà khi thoa lên da thì nó sẽ tạo thành lớp màng liên tục, chống nước và mồ hôi, hấp thụ các tia UV gây cháy nắng, đồng thời vẫn cho các tia làm rám nắng có bước sóng cao hơn chiếu tới bề mặt da”. Ta có thể thấy lúc này các nhà khoa học chưa có sự phân biệt giữa bức xạ UVB và UVA.

Lối suy nghĩ này bắt đầu dần thay đổi vào những năm 1960. Vào năm 1965, nhà khoa học J. Graham Smith và G. Rolland Finlayson cho biết: “Những thay đổi thường được cho là do lão hóa ở da người (Da trắng) chủ yếu là do tác động của tổn thương da kéo dài và liên tục do ánh nắng Mặt trời”. Một năm sau, một bài báo khác cho biết “kem chống nắng chỉ nên sàng lọc tia bức xạ gây ban đỏ (tia UVB 280 - 315 nm) tới mức bảo vệ da không bị ánh sáng tổn thương, đồng thời không được loại trừ hấp thụ tia bức xạ có tác dụng điều trị và làm rám nắng (tia UVA 315 - 400 nm)!”.

Khoảng năm 1967, các nhà bào chế cố gắng phát triển kem chống nắng chống nước. Đến năm 1976, axit para-aminobenzoic (PABA) và các dẫn xuất là các bộ lọc tia UV được sử dụng nhiều nhất. Vào những năm 1980, người ta thấy rõ chúng có khả năng gây nhạy cảm và có thể chứa hàm lượng nitrosamine (có thể gây ung thư). Vì vậy, PABA và các este của nó gần như bị loại bỏ.

Vào cuối thế kỷ XX, SPF của kem chống nắng đã chuyển sang các giá trị từ 15 đến 30, ngay cả khi một số sản phẩm vẫn ở mức thấp. Thông thường, chúng chỉ được bào chế với vài bộ lọc tia UV, phổ biến nhất là octylmethoxicinnamate bảo vệ da trước tia UVB và avobenzone cho tia UVA. Vì avobenzone không hoàn toàn ổn định với ánh sáng, nên thông thường octyltriazone được thêm vào để tăng độ ổn định với ánh sáng. Lúc này, công nghệ kem chống nắng trở nên tiên tiến hơn, các công ty cho ra mắt sản phẩm dưới dạng xịt và dạng gel.

Quan tâm tới tia UVA

Tiếp xúc với ánh nắng có thể gây hậu quả cấp và mãn tính cho da. UVA (320–400 nm) chiếm tới 95% bức xạ, có thể xuyên qua lớp biểu bì và gây tổn thương ADN gián tiếp, tổn thương da và gây lão hóa. UVB (290–320 nm) gây độc tế bào và đột biến nhiều hơn, tổn thương trực tiếp ADN. Nhưng 95% bức xạ được lọc qua tầng bình lưu. Khi tiếp xúc với lượng bức xạ UV dư thừa, các tế bào có thể trực tiếp chết đi do hoại tử, hoặc nếu DNA bị tổn thương thì có sự tăng sinh tế bào không kiểm soát và các bệnh ung thư sẽ diễn ra.

Vào đầu thế kỷ XXI, người ta thấy rõ bức xạ UVA đóng vai trò quan trọng trong quá trình lão hóa do ánh sáng và ung thư da, do đó, việc phát triển các loại kem chống nắng có khả năng bảo vệ đồng đều trong toàn bộ phạm vi tia UV là điều cần thiết. Các loại kem chống nắng cổ điển vào thời điểm đó ưu tiên bảo vệ da trước tia UVB.

Nguồn:

yahoo.com, blog.sciencemuseum.org.uk, degruyter.com

Bài đăng KH&PT số 1320 (số 48/2024)