Các nghiên cứu của bà về hiện tượng gãy nhiễm sắc thể ở ngô đã dẫn McClintock tới khám phá một locus gãy nhiễm sắc thể có thể thay đổi vị trí của nó trong nhiễm sắc thể. Bà cũng phát hiện ra rằng tùy thuộc vào nơi chúng chèn vào nhiễm sắc thể, các yếu tố di động này có thể thay đổi biểu hiện của các gene khác một cách thuận nghịch. Bà tóm tắt dữ liệu về các yếu tố có thể chuyển vị đầu tiên mà mình khám phá được, Ac và Ds, trong Bài báo kinh điển PNAS: “The origin and behavior of mutable loci in maize”. Tuy các nhà di truyền học về ngô chấp nhận sự tồn tại của chúng tương đối sớm, song phải mất nhiều thập kỷ thì giới khoa học mới rộng rãi chấp nhận tính phổ biến của các yếu tố di truyền di động và ý nghĩa của những khám phá mà McClintock tìm ra.
Đứt gãy nhiễm sắc thể và TransposonTại Viện Carnegie, McClintock tiếp tục các nghiên cứu trước về cơ chế đứt gãy và hợp nhất nhiễm sắc thể ở ngô. Bà xác định được một sự kiện đứt gãy nhiễm sắc thể luôn xảy ra tại cùng một vị trí trên nhiễm sắc thể số 9 của ngô – bà đặt tên là locus “
Ds” hay “dissociation” (phân ly). Trong nhiều năm liền bà nghiên cứu locus này và phát hiện Ds có thể thay đổi vị trí trong nhiễm sắc thể. Các thí nghiệm thêm với locus Ds cho thấy đứt gãy nhiễm sắc thể tại locus này đòi hỏi một locus trội thứ hai, locus này lại có thể bắt đầu sự chuyển vị của chính nó. McClintock đặt tên cho locus thứ hai này là Activator (kích hoạt) hay
Ac, và phát hiện một yếu tố Ac tại một vị trí khác hay thậm chí một nhiễm sắc thể khác có thể kích hoạt đứt gãy nhiễm sắc thể Ds.
Bài báo Kinh điển PNAS năm 1950 của McClintock đã tóm tắt nhiều năm dữ liệu thực nghiệm để hỗ trợ cho quá trình chuyển vị Ds và Ac. Trong đó, bà lưu ý rằng Ds và Ac có thể chuyển vị, chúng chèn vào đâu có thể dẫn đến đột biến không ổn định, và transposon di chuyển từ các locus đột biến có thể khôi phục chức năng của gene. McClintock tiếp nối bài báo ấy bằng một phát biểu tại Hội thảo Cold Spring Harbor (1951), mô tả khám phá của mình về chuyển vị. Khi bà nói xong, nhà di truyền học Evelyn Witkin nhớ lại, toàn bộ khán phòng đều im phăng phắc - báo trước thái độ lạnh nhạt ban đầu với những phát hiện của McClintock.
Phản ứng im lặngMcClintock mô tả phản ứng ban đầu với khám phá của bà là “hoang mang, thậm chí thù địch”. Nói bao quát về cộng đồng khoa học, bà nói: “Tôi đã rất sửng sốt khi thấy họ không hiểu nó, không coi trọng nó”. Khái niệm chuyển vị không hề dễ dàng phù hợp với khuôn khổ di truyền học vào thời điểm đó. Phát hiện của McClintock về các đột biến bật và tắt gene bất đồng với ý tưởng đương thời rằng các đột biến làm gene bất hoạt vĩnh viễn. Hơn nữa, nhiều thập kỷ dữ liệu lập bản đồ di truyền cho thấy các gene được sắp xếp tuyến tính ở các vị trí cố định so với nhau, điều này khiến các nhà nghiên cứu khó lòng chấp nhận rằng các gene có thể di truyền trong bộ gene.
Phản ứng lạnh nhạt của giới khoa học không khiến McClintock nản lòng thoái chí, bà tiếp tục đi theo con đường mà mình tin là đúng. Vào những năm 1950, McClintock phát hiện một yếu tố di động mới: Suppressor-Mutator (Spm), và cơ chế điều hòa phức tạp của nó. Spm có thể chuyển đổi qua lại giữa dạng “bất hoạt” và dạng hoạt động – bà gọi đây là “thay đổi pha”, hiện được biết là kết quả của quá trình methyl hóa. Một số dạng Spm chuyển đổi giữa các pha bất hoạt và hoạt động trong quá trình phát triển, trong khi các dạng khác cho thấy các kiểu biểu hiện cụ thể và chỉ hoạt động ở một số bộ phận nhất định trên cây. Những nghiên cứu tiên phong này đã báo trước tầm quan trọng của biểu sinh học, những thay đổi di truyền không do thay đổi trong trình tự gene gây ra, trong quá trình phát triển.
Sự công nhận muộn màngMột thời gian ngắn trước khi McClintock chính thức nghỉ hưu vào năm 1967, các yếu tố di truyền được phát hiện trong thực khuẩn thể – virus lây nhiễm vi khuẩn. Chúng sẽ sớm được phát hiện trong chính vi khuẩn, và cuối cùng là trong ruồi giấm. Cộng đồng khoa học dần nhận ra transposon không chỉ có ở trên ngô mà thực tế là phổ biến ở nhiều loài.
Năm 1983, 35 năm sau bài báo đầu tiên về chuyển vị được công bố, và 33 năm sau Bài báo Kinh điển PNAS, McClintock đã được trao giải Nobel.
Nguồn: www.pnas.org