Paul D. Parkman là nhà khoa học đóng vai trò trung tâm trong việc phát hiện virus rubella và phát triển vaccine để chống lại nó trong những năm 1960.
Trong nhiều năm, rubella được coi là một căn bệnh trẻ em vô hại, mặc dù nó cũng có thể ảnh hưởng tới cả người trưởng thành. Các triệu chứng thường rất nhỏ và đôi khi khó phát hiện, bao gồm sốt, đau họng và chảy nước mũi. Triệu chứng rõ rệt nhất là các nốt mẩn đỏ và virus được đặt tên theo triệu chứng này (“rubella” bắt nguồn từ tiếng Latin, nghĩa là “nốt đỏ”)
Tuy nhiên, trong những năm 1940, một bác sĩ nhãn khoa Úc tên Norman McAlister Gregg quan sát thấy số lượng lớn phụ nữ nhiễm rubella trong đầu thời kỳ mang thai sinh ra những đứa trẻ bị đục thủy tinh thể và dị tật tim. Rubella ở người mẹ cũng liên quan tới bệnh điếc bẩm sinh và thiểu năng trí tuệ, cũng như sảy thai và thai chết lưu.
Hai thập niên nữa trôi qua thì virus rubella mới được phát hiện vào đầu những năm 1960. Những người đằng sau khám phá này là bác sĩ Parkman cùng các đồng nghiệp của ông ở BộQuân y và một nhóm các nhà nghiên cứu tại Đại học Harvard với người đứng đầu là Thomas H. Weller, người đồng nhận giải Nobel về Sinh lý học và Y học cho công trình nghiên cứu của ông về virus bại liệt.
Parkman vốn học làm bác sĩ nhi khoa, song ông chuyển hướng sang quan tâm virus học khi công tác tại Bộ Quân y Mỹ vào đầu những năm 1960. Công tác tại Đồn Dix ở New Jersey, ông thấy chán nghiên cứu về virus adeno được giao, những vi trùng phổ biến trong hầu hết căn bệnh gây ra triệu chứng giống như cúm nhẹ và cảm lạnh.
“Chảy nước mũi chẳng có gì đáng chú ý”, bác sĩ Parkman nhiều năm sau nhớ lại, vì thế ông bắt đầu dành thời gian rảnh rỗi trong một phòng bệnh dành cho những tân binh bị phát ban. Bác sĩ Parkman cùng các đồng nghiệp phát hiện ra nhiều chàng trai trẻ mắc bệnh rubella, hay còn được gọi là bệnh sởi Đức bởi vì các bác sĩ người Đức đã phân loại căn bệnh này vào thế kỷ 19.
Vào thời điểm đó, bác sĩ Parkman công tác tại Viện Nghiên cứu Quân đội Walter Reed, bên ngoài Washington ở ngoại ô Maryland. Năm 1963, ông chuyển sang một vị trí dân sự ở Viện Sức khỏe Quốc gia gần đó. Tại đây, ông cùng đồng nghiệp bao gồm Harry M. Meyer Jr. bắt tay vào nghiên cứu loại vaccine chống lại rubella ngay khi căn bệnh này bùng phát trên diện rộng ở Mỹ.
Vào năm 1964 và 1965, theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh, 12,5 triệu người Mỹ đã nhiễm bệnh rubella, 11.000 thai phụ đã sảy thai, 2.100 trẻ sơ sinh chết non, và 20.000 trẻ ra đời với các dị tật bẩm sinh được gói gọn trong thuật ngữ “hội chứng rubella bẩm sinh”. Lo sợ về những hậu quả cho đứa con của mình, nhiều phụ nữ mắc rubella trong thời gian mang thai đã tìm cách nạo phá thai. Các bác sĩ không thể dự đoán được thai nhi sẽ chịu ảnh hưởng nặng nề hay ở mức nhẹ bởi căn bệnh này.
Dịch bệnh rubella thường xảy ra theo chu kỳ, cứ khoảng sáu tới chín năm lại tái diễn một lần. Và trận dịch ập xuống Mỹ vào giữa những năm 1960 là lần tồi tệ nhất trong ba thập kỷ. Song nhờ nghiên cứu của bác sĩ Parkman cùng những người khác mà đây là trận dịch cuối cùng đối với người Mỹ.
Vào năm 1966, bác sĩ Parkman và Meyer họ đã khám phá ra một loại vaccine an toàn và hiệu quả chống lại bệnh rubella. Với đóng góp thêm từ các nhà khoa học bao gồm Maurice R. Hilleman – nhà vi trùng học hàng đầu của Mỹ, vaccine đầu tiên đã được cấp phép vào năm 1969. Bác sĩ Parkman cũng nằm trong số các nhà khoa học nắm giữ bằng sáng chế cho xét nghiệm miễn dịch rubella.
Sau đó các loại vaccine rubella khác nối tiếp ra đời, và trong vòng bốn năm, gần 40 triệu trẻ em Mỹ đã được tiêm chủng. Năm 1971, một loại vaccine kết hợp sởi, quai bị và rubella (MMR) ra đời, bảo vệ người tiêm khỏi ba căn bệnh trên cùng lúc.
Chính phủ Mỹ tuyên bố họ đã loại trừ được căn bệnh này vào năm 2004 và khỏi châu Mỹ vào năm 2015. Theo dữ liệu mới nhất từ Tổ chức Y tế Thế giới, có 17.865 trường hợp mắc bệnh rubella ở 78 quốc gia vào năm 2022, với tỷ lệ mắc hội chứng rubella bẩm sinh cao nhất ở châu Phi và Đông Nam Á. Song các nhà khoa học ngày nay cho rằng xóa sổ bệnh rubella là điều khả thi.
Tổng thống Mỹ Lyndon B. Johnson đã viết thư cho tiến sĩ Parkman vào năm 1966: “Rất ít người có thể tự xếp mình vào số người trực tiếp nâng cao an sinh của nhân loại, bảo vệ được sinh mạng quý báu và mang lại hy vọng mới cho thế giới. Những thành tựu trong việc phát triển vaccine thử nghiệm hiệu quả chống lại bệnh sởi Đức đã đưa ông và bác sĩ Harry Meyer gia nhập binh đoàn bé nhỏ ấy”.
Paul Douglas Parkman sinh ra ở Auburn, Upstate New York, vào ngày 29/5/1932. Ông lớn lên ở thị trấn Weedsport gần đó, nơi cha ông làm thư ký cho bưu điện và hội đồng trường học địa phương, kiêm thêm nghề nuôi gia cầm. Mẹ ông làm nội trợ.
Vào năm 1955, Parkman đăng ký vào một chương trình song bằng tại Đại học St. Lawrence ở Canton, New York. Tại đây ông học chuyên ngành sinh học và ông nhận bằng y khoa năm 1957, hạng nhất lớp.
Trong thời gian làm bácsĩ nội trú nhi khoa, ông thường khám sức khỏe lần đầu cho trẻ sơ sinh. Ông nhớ lại nỗi buồn khi đẩy chiếc xe nôi chở một đứa trẻ sơ sinh chết non vào phòng sản phụ để người mẹ có thể nhìn ngắm đứa con của mình. Sau này bác sĩ Parkman mới biết đứa bé vắn số có thể là do người mẹ mắc phải bệnh rubella trong quá trình mang thai.
Trong thời gian làm việc tại Viện Y tế Quốc gia Mỹ, bác sĩ Parkman đã trở thành trưởng bộ phận virus học tổng quát, trước khi khoa của ông được chuyển sang Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm (FDA). Ông được đề bạt lên vị trí lãnh đạo Trung tâm Nghiên cứu và Đánh giá Sinh học của FDA, nơi ông giúp giám sát các chính sách về xét nghiệm và điều trị HIV/AIDS trước khi nghỉ hưu vào năm 1990.
Bác sĩ Parkman rất buồn khi nghĩ về nhiều người dân phản đối tiêm chủng tiêu chuẩn – tình trạng đã xảy ra trong những năm gần đây ở một số nhóm, đặc biệt là ở các bậc cha mẹ có con nhỏ, mặc dù có nhiều bằng chứng khoa học cho thấy lợi ích của vaccine vượt xa mọi rủi ro mà đứa trẻ có thể gặp phải, và tiêm chủng là một trong những công cụ mạnh mẽ nhất để bảo vệ sức khỏe cá nhân lẫn tập thể.
“Khi nhìn lại sự nghiệp của mình, tôi cho rằng có lẽ mình đã tham gia vào giai đoạn dễ dàng,” ông viết trong ấn phẩm FDA Consumer năm 2002. “Nhiều người khác sẽ phải đảm nhận nhiệm vụ khó khăn là duy trì sự bảo vệ mà chúng ta đã nỗ lực mới đạt được. Chúng ta phải ngăn chặn sự lây lan của chủ nghĩa chối bỏ vaccine này, vì nếu nó chiếm ưu thế, những thành công của chúng ta có thể sẽ mất đi.”
Bác sĩ Paul D. Parkman qua đời vào ngày 7/5/2024 tại nhà riêng ở Auburn, New York.
Nguồn: