Thuế đã tồn tại từ rất lâu đời, thậm chí có trước cả tiền xu. Thời xa xưa, những người cầm quyền đã đánh thuế lên gần như tất cả mọi thứ và người dân có thể lựa chọn trả thuế bằng bất kỳ thứ gì. Ở khu vực Lưỡng Hà cổ đại, sự linh hoạt này đã dẫn đến một số phương thức thanh toán thuế khá kỳ lạ. Ví dụ, thuế để chôn một thi thể trong mộ là “bảy thùng bia, 420 ổ bánh mì, hai giạ lúa mạch, một áo choàng len, một con dê và một chiếc giường”, Tonia Sharlach, nhà sử học tại Đại học bang Oklahoma (Mỹ), cho biết. “Theo một số tài liệu, vào khoảng năm 2000 đến năm 1800 trước Công nguyên, một người đàn ông thậm chí đã nộp thuế bằng 18.880 chiếc chổi và sáu khúc gỗ”.
Việc thanh toán thuế bằng hàng hóa đã giúp một số người cố ý né tránh hoặc giảm thiểu nghĩa vụ nộp thuế. “Trong một trường hợp khác, một người đàn ông tuyên bố rằng anh ta không có tài sản gì ngoại trừ những chiếc cối xay cực kỳ nặng. Vì vậy, anh ta đã bắt người thu thuế mang chúng đi như một hình thức thanh toán thuế của mình”, Sharlach cho biết.
Ai Cập cổ đạiAi Cập cổ đại là một trong những nền văn minh đầu tiên có hệ thống thuế được tổ chức chặt chẽ vào khoảng năm 3000 trước Công nguyên, ngay sau khi Narmer – vị Pharaoh đầu tiên của Ai Cập – thống nhất Hạ Ai Cập và Thượng Ai Cập.
Những người cai trị thời kỳ đầu của Ai Cập rất quan tâm đến vấn đề thuế. Họ đi khắp đất nước cùng với một đoàn tùy tùng để đánh giá tài sản của thần dân – bao gồm dầu, bia, gốm sứ, gia súc, cây trồng – và thu thuế dựa trên những thứ đó. Sự kiện thường niên này trở nên nổi tiếng với tên gọi Shemsu Hor, hoặc Lễ hội Đi theo thần Horus. Trong thời kỳ Cổ Vương quốc, thuế đã mang lại đủ doanh thu để xây dựng các công trình lớn, chẳng hạn như kim tự tháp ở Giza.
Hệ thống thuế của Ai Cập cổ đại đã phát triển trong suốt chiều dài lịch sử 3.000 năm và ngày càng trở nên phức tạp hơn theo thời gian. Vào thời kỳ Tân Vương quốc (từ năm 1539 đến năm 1075 trước Công nguyên), các Pharaoh đã tìm ra cách đánh thuế người dân dựa trên những gì họ kiếm được nhờ vào một phát minh gọi là “thiết bị đo mực nước sông Nile” (nilometer). Thiết bị này có tác dụng tính toán mực nước sông Nile trong mùa lũ hằng năm. Thuế sẽ thấp hơn nếu mực nước quá thấp, báo trước hạn hán và mùa màng thất bát. Mực nước dồi dào đồng nghĩa với mùa màng bội thu, dẫn đến việc đánh thuế cao hơn.
Ân xá thuế ở Ấn Độ cổ đạiĐế quốc Mauryan của Ấn Độ (từ năm 321 đến năm 185 trước Công nguyên) đã tổ chức một cuộc thi ý tưởng hằng năm và người chiến thắng được miễn thuế. “Bộ máy cai trị lấy ý tưởng từ người dân về cách giải quyết các vấn đề của đất nước”, Sharlach giải thích. “Nếu giải pháp của bạn được lựa chọn và triển khai, bạn sẽ được miễn thuế trọn đời”. Nhà văn Hy Lạp Megasthenes đã ghi lại tập tục này một cách chi tiết trong cuốn sách của ông với tựa đề “Indica”.
Tuy nhiên, giống như hầu hết các nỗ lực cải cách thuế, cách làm này không hiệu quả. “Vấn đề là những người thiết kế các cải cách thiếu động lực để tạo ra một giải pháp toàn diện.Họ thường chỉ tập trung vào việc giải quyết một vấn đề cấp bách duy nhất”, Sharlach nhấn mạnh.
Thuế nước tiểu thời La Mã cổ đạiHoàng đế La Mã Vespasian (trị vì từ năm 69 đến năm 79 sau Công Nguyên) có thể không phải là một cái tên quen thuộc như Augustus hay Marcus Aurelius, nhưng ông đã mang lại sự ổn định cho đế chế trong thời kỳ hỗn loạn – một phần thông qua chính sách thuế cải tiến đánh vào nước tiểu của người dân.
Amoniac [thành phần có trong nước tiểu] là một mặt hàng có giá trị trong thời La Mã cổ đại. Nó có thể làm sạch bụi bẩn và dầu mỡ trên quần áo. Người ta cũng sử dụng nó trong quy trình làm đồ da, làm phân bón, và thậm chí cả làm trắng răng.
Tất cả lượng amoniac này đều có nguồn gốc từ nước tiểu của con người, phần lớn được thu thập từ các nhà vệ sinh công cộng ở Rome. Và giống như tất cả các sản phẩm có giá trị khác, nhà nước La Mã đã tìm cách đánh thuế nó.
Một số người La Mã giàu có, bao gồm con trai của Hoàng đế Vespasian tên là Titus, phản đối thuế nước tiểu. Titus nói với cha mình rằng việc đánh thuế lên nước tiểu của người dân là một hành động phản cảm, và Vespasian đã đáp lại: “Pecunia non olet” hoặc “Tiền không có mùi hôi”, theo nội dung tác phẩm “The Lives of the Twelve Caesars” của nhà sử học người La Mã Suetonius viết vào năm 120 sau Công nguyên.
Thuế râu ở NgaMặc dù việc sử dụng rộng rãi tiền xu và tiền tệ đã ảnh hưởng đến hệ thống thuế theo hướng ít phân biệt giai cấp hơn, nhưng những người cai trị vẫn áp dụng một số cách đánh thuế độc đáo để đạt được mục đích của mình. Vào năm 1698, nhà cải cách người Nga Peter Đại đế muốn nước Nga giống với các quốc gia “hiện đại” ở Tây Âu, nơi mà việc cạo râu gọn gàng được Peter coi là biểu tượng của sự tân tiến. Sau khi trở về Nga, vị sa hoàng này đã ban hành thuế râu đối với những công dân của mình.
Cụ thể, bất kỳ người đàn ông Nga nào muốn để râu đều phải nộp một khoản tiền thuế – nông dân chỉ phải nộp một khoản phí nhỏ, trong khi giới quý tộc và thương gia có thể phải trả tới một trăm rúp. Những người đàn ông đã nộp thuế cần đeo một loại thẻ đặc biệt [thường có dạng hình tròn] tới mọi nơi họ đến nhằm chứng minh rằng họ đã nộp thuế đầy đủ để hưởng đặc quyền này. Tuy nhiên, thuế râu không kéo dài quá lâu khi Catherine Đại đế chính thức bãi bỏ loại thuế kỳ lạ này vào năm 1772.
Thuế của người AztecỞ thời kỳ đỉnh cao vào thế kỷ 15 và 16, Đế chế Aztec ở khu vực Trung Mỹ giàu có và hùng mạnh nhờ thuế. Sử gia Michael E. Smith đã nghiên cứu hệ thống thu thuế của họ và nhận thấy nó cực kỳ phức tạp, với nhiều loại vật phẩm khác nhau được thu thập ở các cấp chính quyền khác nhau.
Tất cả các loại thuế sau đó được chuyển đến cơ quan quản lý trung ương của người Aztec, nơi họ lưu giữ những ghi chép tỉ mỉ về việc ai đã nộp cái gì. Nhiều hồ sơ trong số này vẫn tồn tại cho đến ngày nay. Trong đó, nổi tiếng nhất là Matrícula de Tributos – một cuốn sổ ghi chép với hình minh họa nhiều màu sắc, thể hiện chính xác có bao nhiêu tấm da báo đốm, đá quý, ngô, ca cao, quả bóng cao su, thỏi vàng, mật ong, muối và vải vóc mà bộ máy cai trị thu được mỗi mùa thuế.
Theo National Geographic