Trong nhiều thế kỷ, công trình sáu tập "The History of the Decline and Fall of the Roman Empire" của học giả Edward Gibbon (1737-1794) luôn được đánh giá là một trong những bộ sách đồ sộ, kinh điển về lịch sử La Mã nói riêng, lịch sử văn minh thế giới nói chung.

Công trình của ông vừa được chuyển ngữ và xuất bản tại Việt Nam thông qua phiên bản rút gọn của NXB Random House, với tựa đề Sự suy tàn và sụp đổ của Đế chế La Mã [1]. Đây là một nỗ lực đáng kinh ngạc của ngành xuất bản tại Việt Nam, với thời gian dịch thuật và biên tập lên đến bảy năm.

Có thể chia công trình của Gibbon làm hai phần chính:

(1) Phần đầu (từ quyển I đến quyển IV) tập trung vào đế chế La Mã, bắt đầu từ những chỉ dấu tiêu cực trong những năm tháng đỉnh cao của Đế chế dưới thời Antonine (138-192) và kết thúc vào khoảng năm 640, với sự thất bại hoàn toàn của Hoàng đế Heraclius (610-641) trong việc bảo vệ lãnh thổ Đế chế phía Đông trước cuộc xâm lăng của người Hồi giáo. Với nhiều học giả truyền thống như Gibbon, năm 640 được xem là mốc thời điểm cho sự chuyển đổi từ La Mã sang Byzantine, khi một chính thể Hy Lạp hóa tại Constantinople ngày càng xa rời với các chính thể ở phía Tây La Mã.

(2) Phần thứ hai (gồm hai quyển V và VI) cung cấp cho độc giả những khảo tả liên quan đến nhà nước Byzantine và những chính thể, tộc người đã tương tác với những gì còn lại của chính thể ở Constantinople, từ các thế lực đạo Hồi, các cuộc Thập Tự chinh, Mông Cổ, “Đêm trường Trung Cổ”, cho đến những tiền đề của thời đại Phục Hưng. Và thậm chí, để luận giải về lịch sử suy bại của La Mã, Gibbon phải tìm hiểu về những gì đã diễn ra ở không gian thảo nguyên Á-Âu, và kết nối những quan điểm của mình đến cả những nhận định về Trung Hoa.

Tấn bi kịch về sự sụp đổ của một bản sắc

Hẳn nhiên, bộ sách của Gibbon xoay quanh các nhà cai trị và yếu nhân, những cuộc xung đột cùng những trận chiến oanh liệt - vốn là các chủ đề được nhiều học giả truyền thống chú trọng. Nhưng bên cạnh đó, tác giả còn cho thấy công trình của mình không chỉ là những khảo tả lịch sử đơn thuần. Ông điểm xuyết những chương về thần học, triết học, luật học cũng như nhiều giai thoại làm sinh động câu chuyện của mình hơn là trình bày các sự kiện thuần túy. Có thể nói, Decline and Fall đã vươn tầm trở thành một bộ bách khoa về 13 thế kỷ (từ thế kỷ III đến giữa thế kỷ XV) của lịch sử Địa Trung Hải nói chung, của La Mã và những thực thể kế thừa nói riêng. Trong thời đại mà các nghiên cứu học thuật ngày càng trở nên hẹp và sâu về chuyên môn như hiện nay, chúng ta khó tìm thấy bất cứ công trình nào chứa đựng quy mô và tầm nhìn đầy tham vọng được một cá nhân thực hiện như những gì mà Gibbon đã thể hiện trong bộ sách của mình.

Một điều đáng trân trọng ở bộ sách đó chính là cách Gibbon thu thập và sử dụng các nguồn tư liệu. Có một thiệt thòi đối với Gibbon so với các sử gia hiện đại là bối cảnh lịch sử đã không cho phép ông tiếp cận những khám phá khảo cổ học, và buộc lòng phải dựa vào các nguồn tư liệu thư tịch khác nhau mà ông sưu tầm được. Trong khi đó, một số lượng lớn nguồn tư liệu này lại đến từ các ghi chép của giới tăng lữ Kitô giáo và quan chức Byzantine, vốn không được Gibbon dành nhiều thiện cảm.

Chân dung Edward Gibbon (1737-1794) qua tranh sơn dầu ở Lâu đài Fyvie, Scotland. Nguồn: INT

Dù sao đi nữa, các nguồn mà ông tham khảo và sử dụng cũng chính là các nguồn mà những học giả hiện nay vẫn dùng. Thậm chí, Gibbon còn tìm tòi và khám phá những nguồn tư liệu sơ cấp và về mặt phê phán sử liệu, ông không mắc bất cứ lỗi nghiêm trọng nào. Hơn thế, không thể không cảm phục tinh thần ham học hỏi và nghiên cứu của ông. Ông sống trong những thập niên cuối của thế kỷ XVIII, với một nền tảng vững chắc về nhiều ngôn ngữ khác nhau - gồm tiếng Hy Lạp, Latin, Pháp và Anh ngữ. Ông đã chuẩn bị hẳn một thư viện của riêng mình để phục vụ cho việc biên soạn Decline and Fall, trong đó có không chỉ các cuốn sách lịch sử mà còn nhiều cuốn về thần học hay triết học khác nhau. Tất cả đều cho thấy tinh thần nghiêm túc và tâm huyết lớn lao mà ông dành cho công trình của mình.

Trong suốt tác phẩm, Gibbon đã sử dụng văn phong đầy tính biểu tượng và có phần kịch tính. Dường như với ông, Decline and Fall không chỉ là một bộ sách lịch sử đơn thuần, mà phải chăng còn là một tấn bi kịch - nơi các thế hệ nhân loại đóng vai những diễn viên trên sân khấu thế giới. Câu văn của bộ sách thường mang tính nhị nguyên và đối xứng, khi tác giả thường đặt ra các so sánh về tương đồng và khác biệt giữa các quyết sách, yếu nhân, chiến loại và thời đại. Từ đó, lột tả được những mâu thuẫn về các đối lập trong chính các nhân vật lịch sử, như khi mô tả về Augustus vốn “ban đầu ông là kẻ thù và sau cùng lại là quốc phụ của thế giới La Mã.” [2] Một khía cạnh khác phải kể đến là Gibbon đôi khi thúc đẩy sự mơ hồ trong chính độc giả để họ phải quyết định lựa chọn một trong hai quan điểm giữa danh và lợi, cũng như sử dụng thường xuyên các luận điểm châm biếm trong bộ sách của mình.

Có thể thấy, công trình đồ sộ của Gibbon ghi lại một tấn bi kịch về nguyên nhân và lý do tại sao một nền văn minh tráng lệ của lịch sử nhân loại - vốn vô song trên mọi phương diện - cuối cùng lại thất bại trước các thế lực được coi là man rợ, kém phát triển, mông muội và từng không được đếm xỉa đến. Đó là những gì đã diễn ra với đế chế La Mã trong những năm tháng mất mát của thế kỷ V, những thiệt hại không thể bù đắp trong 40 năm đầu thế kỷ VII, và sự trượt dốc không phanh của nửa phía Đông sau năm 1204.

Một số người khi đọc Decline and Fall đã đặt ra nhiều suy tư rằng tại sao sự lụn bại và hồi kết của đế chế La Mã lại kéo dài đến 13 thế kỷ. Đó có thể được xem là một trong những mô hình phát triển của một nền văn minh. Không phải văn minh nào cũng phát triển và suy tàn như Ai Cập cổ đại hay phát triển liên tục như Trung Hoa, đôi khi một số nền văn minh đã trỗi dậy, suy tàn và trung hưng, rồi lại suy sụp và biến mất. La Mã là một trường hợp như vậy.

Từ một thành bang ở miền Trung Italy, La Mã phát triển thành một đế chế và sau đó thậm chí dần trở thành một bản sắc và hệ tư tưởng. Sự sụp đổ của đế chế La Mã mà Gibbon trình bày trong công trình của mình, không chỉ là sự sụp đổ của nhà nước La Mã tại Rome hay Constantinople. Thay vào đó, còn là sự sụp đổ của bản sắc La Mã tại Địa Trung Hải. La Mã không phải là một nhà nước quốc gia cũng không phải là một dân tộc, La Mã là một bản sắc và một huyễn ảnh mà các nhà nước kế thừa cố gắng đạt đến song bất thành.

Decline and Fall thậm chí còn cho thấy lịch sử có tính tất yếu của nó, và những cá nhân dường như chỉ có thể làm chậm lại dòng chảy lịch sử đó thay vì ngăn cản hay làm chệch hướng. Các hoàng đế và yếu nhân La Mã không ngồi không - đứng trước một đế chế đang lụn bại, họ đều cố gắng vực dậy nó, từ Constantine I cho đến Theodosius II, từ Heraclius cho đến Basil II, từ Alexios I cho đến hoàng đế cuối cùng Constantine XI,... Tất cả đều sẵn sàng khôi phục Đế chế, kẻ thành công, người thất bại, nhưng cuối cùng tính tất yếu mà Decline and Fall truyền tải là không thể cản ngăn hay chệch hướng.

Tất nhiên, Decline and Fall của Gibbon không phải không có nhiều vấn đề cần luận giải, đính chính và sửa chữa. Nhưng cần nhấn mạnh rằng công trình của Gibbon được thực hiện vào cuối thế kỷ XVIII - trong một bối cảnh thiếu hụt những nghiên cứu đối chiếu hay khả năng điền dã như những học giả hiện đại, nó mang trong mình tính thời đại của nó. Đó là điều chúng ta cần ghi nhận.

Cấu trúc ba quyển IV, V và VI của Gibbon cũng là một vấn đề đối với những độc giả không chuyên về lịch sử. Tám thế kỷ đã được khảo tả khái quát và sơ lược, bắt đầu từ mô tả sơ sài về các triều đại hoàng đế Byzantine, sự truyền bá của Hồi giáo, Đại phân ly năm 1054, các đợt xâm nhập của những chúa ngựa trên thảo nguyên rồi quay ngược lại tình trạng ở Rome dưới thời các Giáo hoàng. Những ai chưa có kiến thức chung về lịch sử thế giới hay lịch sử La Mã sẽ còn cảm thấy choáng ngợp ngay từ những chương đầu tiên, khi tác giả lướt đi quá nhanh với hàng loạt thông tin như vậy.

***

Phiên bản Việt bộ sách của Gibbon dày gần 1.800 trang. Ảnh: DL

Phiên bản Decline and Fall rút gọn được phát hành ở Việt Nam vào tháng 11 năm nay do học giả Hans-Friedrich Mueller biên tập. Mỗi phiên bản rút gọn của Decline and Fall đều có ưu nhược điểm của nó. Với phiên bản của Hans-Friedrich Mueller, chúng ta sẽ thấy ông chấp nhận hy sinh những nội dung liên quan đến chiến tranh hay quân sự, nhường dung lượng cho các thông tin về triết học, luật học, tôn giáo.

Một điều cần lưu ý là, Decline and Fall vốn được Gibbon viết dành cho giới hàn lâm chứ không phải các độc giả đại chúng. Rất nhiều thuật ngữ, địa danh đã được ông giữ nguyên từ tiếng Hy Lạp và tiếng Latin thay vì chuyển ngữ hay giải thích. Ông mặc định người đọc hiểu những thuật ngữ hay địa danh này. Do đó, sau khi chuyển ngữ, nên có một cá nhân hay một nhóm có kinh nghiệm biên tập và hiệu đính bộ sách. Trong trường hợp không thể giải thích chính xác địa danh hay thuật ngữ thì không nên giải thích, nó sẽ dẫn tới những hiểu sai của độc giả.

Đơn cử như thuật ngữ “Frank” theo nghĩa thông thường là người Pháp. Nhưng trong ngữ cảnh của bộ sách, ví dụ như ở chương LXI, “Frank” chỉ người Tây Âu Công giáo La Mã theo quan điểm của người Byzantine (một sự tương đồng với người Hồi giáo khi gọi dân Công giáo Tây Âu là “Frank”). Do đó nên giữ nguyên không chuyển ngữ. Đồng thời, chúng tôi phân vân tại sao trong khi các chương bảo lưu thuật ngữ “Frank” thì chương LXI lại chuyển ngữ “Frank” thành “người Pháp.” Điều này dẫn đến những hiểu lầm về lịch sử Byzantine và Thập Tự chinh, khi bản thân thế lực “Frank” được nhắc đến ở đây là người Đức, Latin và Flemish hơn là người Pháp.

Đồng thời, cần hạn chế chuyển tên người sang âm Hán Việt. Tại sao phải chuyển ngữ Attila thành A Đề Lạp, Zingis Khan là Thành Cát Tư Hãn và Timour thành Thiếp Mộc Nhi, trong khi Genghis thì không chuyển ngữ là Thành Cát. Chưa kể đến chương LXV, tên nhân vật Timur [3] trong bản gốc là: “Timour or Timourlane” được dịch thành “Timour hay Thiếp Mộc Nhi”. Như vậy là chuyển ngữ sai, “lane” ở đây bắt nguồn từ tiếng Ba Tư “lang” nghĩa là què, thọt. Đúng ra, nếu dịch nghĩa phải là “Timour hay Timour què” hoặc giữ nguyên gốc.

Địa danh cũng là một vấn đề không nhất quán trong việc chú giải, đôi khi còn giải thích sai. Ví dụ, trong phần nói về sự trỗi dậy của nhà Ottoman, giải thích sai vùng Surgut ở bên bờ sông Sangar là một địa danh ở Nga. [4] Surgut ở đây là Söğüt, một huyện thuộc Tây Bắc Anatolia; Sangar là sông Sakarya ở phía Tây Bắc Anatolia, đổ vào biển Marmara.

Thậm chí có những lỗi biên dịch sai hoàn toàn, như “An ecclesiastic, who fled from the sack of Waradin” được chuyển ngữ thành “Một tu sĩ nọ thoát khỏi bao tải của Warasin.” [5] “Sack” ở đây là cướp bóc, cướp phá chứ không phải là bao tải. Nguyên nghĩa của “sack of Waradin” là “cuộc cướp bóc thành Waradin” (lưu ý, bản tiếng Việt sai cả chính tả - Waradin, không phải Warasin).

Một lần nữa, chúng tôi muốn nhấn mạnh rằng với những bộ sách đồ sộ như Decline and Fall của Gibbon, cần tiến hành công tác hiệu đính một cách thận trọng và kỹ lưỡng.

Chú thích:

[1] Thanh Khê dịch, Omega+ và NXB Thế giới ấn hành tháng 11/2022.

[2] Sđd - Quyển I-II, tr.95

[3] Timour, Timur hoặc Timurlane (1336-1405) là một quân chủ gốc Ba Tư-Turk đã thiết lập một đế chế đoản mệnh từ Uzbekistan đến Anatolia ngày nay. Mặc dù đế chế của ông tan rã ngay sau khi ông qua đời, một người cháu của ông đã thiết lập thành công đế chế Mughal tồn tại ở Ấn Độ trong ba thế kỷ liên tục.

[4] Sđd - Quyển V-VI, tr. 408.

[5] Sđd - Quyển V-VI, tr. 404.