Làm trong lĩnh vực nông nghiệp và theo dõi sự phát triển của nông nghiệp Việt Nam trong hơn 20 năm qua, chúng tôi nhận thấy rằng chặng đường đó không phải đường thẳng mà luôn có những nốt thăng trầm và nếu để ý, chúng ta có thể nhận thấy mỗi giai đoạn thường gắn với một từ khoá nổi bật.
Những từ khóa nổi bật
“Thâm canh tăng năng suất” chính
là từ khoá nổi bật của giai đoạn những năm 1990, kéo theo rất nhiều phong trào
sản xuất tạo lượng nông sản khổng lồ, không chỉ giải quyết nhu cầu lương thực
trong nước mà còn đưa Việt Nam trở thành nước xuất khẩu có thứ hạng trên thế giới
ở một số cây trồng như lúa gạo, hồ tiêu, cà phê... “Hiện đại hoá nông nghiệp”,
“Tích tụ ruộng đất” là những từ khoá nổi bật trong giai đoạn những năm
2000-2010, nó đã thúc đẩy mạnh mẽ việc áp dụng cơ giới hoá trên đồng ruộng, kéo
theo động lực tích tụ ruộng đất rộng rãi.
Có điều, dù đạt được những kết quả
được ca ngợi rộng rãi, thì phía sau những giai đoạn đó, chúng ta đều nhận ra những
tồn tại mặt trái của nó là không hề nhỏ cả về kinh tế, xã hội và môi trường: chất
lượng nông sản thấp, giá trị thấp, nông dân bỏ ruộng, môi trường xuống cấp....
Điều đó khiến cho sự cân bằng giữa ba trục của khái niệm phát triển bền vững cứ
bị lệch đi.
Vài năm trở lại đây, “nông nghiệp
công nghệ cao - NNCNC” lên ngôi như một xu thế hiện đại hứa hẹn đem lại nhiều lợi
ích và bước đầu đã tạo nên một vài phong trào lan tỏa trong xã hội. Trước quá
nhiều bài học hậu quả từ quá khứ, có lẽ chúng ta cần phải dừng lại trước vòng
xoáy sắp đến để nghiền ngẫm đúng đắn tính khả dụng của khái niệm trên.
Trước khi nói cụ thể về nông nghiệp công nghệ cao, chúng tôi muốn kể về những câu chuyện sinh động và mới nhất về
nông nghiệp ở hai địa phương nơi chúng tôi vừa mới thực địa:
Hãy nhìn vào Gia Lai. Thiên nhiên
ưu đãi, với bạt ngàn hồ tiêu, cà phê và đóng góp vào giá trị xuất khẩu hàng tỷ
đô-la. Nhưng hơn hai năm trở lại đây, hồ tiêu đang trở thành một gánh nặng quá
sức với nhiều nông dân. Tháng tư này khi đến Gia Lai, không khó khi chứng
kiến những khu vườn xơ xác mà nhiều người cay đắng gọi là “nghĩa địa tiêu”.
Trên 4.200 tỷ đồng là con số nông dân trồng tiêu tại Gia
Lai đang nợ ngân hàng và hầu hết không có khả năng trả nợ. Họ đang chịu hậu quả
từ chính hành động cách đây 20 năm: “thâm canh tăng năng suất”. Nông dân
ồ ạt mở rộng diện tích, phá rừng làm trang trại, sử dụng không kiểm soát phân
bón và các loại thuốc bảo vệ thực vật. Trong khi đó, hơn 90% diện tích sử dụng
cùng một loại giống hồ tiêu dẫn đến tình trạng mất cân bằng sinh thái nghiêm trọng.
Hạn hán và dịch bệnh bùng phátkhông thể ngăn chặn đã khiến tiêu chết hàng loạt.
Năm 2018, giá tiêu liên tục giảm mạnh đến
hơn 80% so với thời kì cao nhất năm 2015 và dự báo giá sẽ còn tiếp tục giảm do
tổng sản lượng vẫn sẽ tăng trong ít nhất 2 năm nữa.
Bài học hồ tiêu có lẽ không
phải lần đầu diễn ra, nông dân Việt Nam đã luôn vấp phải những sai lầm cũ để
luôn phải “đối phó”, “sửa sai” hay “giải cứu” hết sản phẩm này đến sản phẩm
khác.
Hãy nhìn vào Hà Giang, quê hương của đá, nơi người
dân bao đời trồng ngô bản địa– với khả năng sống dai dẳng đến 5 tháng trời chỉ
dựa vào nước trời, một chút đất giữa những kẽ đá. Đã nhiều lần tiến bộ công nghệ
về giống đưa lên đây ngô lai năng suất cao, thời gian sinh trưởng ngắn vượt trội
so với giống bản địa, nhằm giúp họ có “của ăn của để”. Thế nhưng không có giống
ngô lai nào chịu sống tốt ở vùng khắc nghiệt này. Một lãnh đạo huyện Mèo Vạc đề
nghị chúng tôi xem có giải pháp tiến bộ nào có thể áp dụng được cho nông nghiệp
nơi này không?
Khó khăn của Hà Gianggợi nhớ đến lịch
sử của Israel - đất nước nổi tiếng với nông nghiệp công nghệcao,khi người ta
phát triển công nghệ cao để giải quyết khó khăn từ chính thực tế thiếuđất canh
tác. Còn Gia Lai, có lẽ do thiên nhiên quá ưu đãi mà người ta chưa phảisáng tạo
nhiều. nhưng giờ nơi đây cần công nghệ cao để kiểm soát quy trình sảnxuất một
cách khoa học, bền vững.
Đồng bộ và hài hòa
Theo Vụ Khoa học, Công nghệ và Môi trường thuộc Bộ
NN&PTNT, thì nông nghiệp công nghệ cao là nền nông nghiệp được áp dụng những
công nghệ mới vào sản xuất, bao gồm: công nghiệp hóa nông nghiệp (cơ giới hóa
các khâu của quá trình sản xuất), tự động hóa, công nghệ thông tin, công nghệ vật
liệu mới, công nghệ sinh học và các giống cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất
lượng, đạt hiệu quả kinh tế cao trên một đơn vị diện tích; và phát triển bền vững
trên cơ sở canh tác hữu cơ.
Bản thân khái niệm này mang nhiều
nội hàm chưa cụ thể: Công nghệ luôn phát triển, do đó một công nghệ nào đó gọi
là cao đối với nước này nhưng có thể là lạc hậu so với nước khác, cao so với
giai đoạn này nhưng sẽ nhanh chóng trở thành lạc hậu trong vài ba năm tiếp
theo, đặc biệt là công nghệ thông tin. Do đó, việc lựa chọn một công nghệ để áp
dụng cho từng nơi có lẽ không hẳn vì nó “cao” đến đâu mà quan trọng hơn là nó
xuất phát từ nhu cầu và phù hợp với điều kiện thực tiễn của vùng đó.
Ví như Hà Giang, quê hương
của đá, nơi người dân bao đời được nuôi sống bởi loại cây trồng quen thuộc là
cây ngô. Đã nhiều lần tiến bộ công nghệ về giống đưa lên đây những tên tuổi ngô
lai năng suất cao vượt trội, chất lượng tốt vượt trội, và thời gian sinh trưởng
thì ngắn vượt trội so với giống ngô bản địa với mục đích giúp bà con có của ăn
của để. Khó khăn của Hà Giang gợi nhớ đến lịch sử của Israel - đất nước nổi tiếng
phát triển CNC để giải quyết chính thực tế thiếu đất canh tác. Hà Giang có lẽ
là nơi cần công nghệ hơn cả nhưng dường như ít người quan tâm.
Sản xuất kinh tế luôn cần phải được đặt trong một thế cân bằng
thường thấy với môi trường và xã hội. Nếu luôn tính toán đến điều đó một cách đầy
đủ, có lẽ chúng ta sẽ không ồ ạt phá bỏ hết những đồi thông đẹp đẽ để biến
thành những “cánh đồng trắng” với bạt ngàn nhà lưới, nhà kính như thường thấy ở
Lâm Đồng; Chúng ta cũng sẽ không ồ ạt đẩy mạnh ba vụ lúa ở Đồng bằng sông Cửu
Long để giá lúa thấp, luôn bấp bênh và nông dân thì dường như nghèo hơn; và
chúng ta sẽ suy nghĩ lại đến thứ hạng xuất khẩu của cà phê, hồ tiêu nếu thấy những
hậu quả nặng nề về sinh thái đe doạ khu vực Tây Nguyên.
Đại đa số nông dân hiện nay chưa hiểu được nông nghiệp công
nghệ cao là gì, có lẽ chỉ một từ họ quan tâm nhất, đó là: bán được giá. Thế
nhưng nông nghiệp Việt Nam đang rất yếu ở khâu thị trường. Người nông dân vẫn
chủ yếu nhìn nhau để sản xuất chứ không theo tín hiệu của thị trường hoặc thậm
chí không có thông tin thị trường, đôi khi phớt lờ sự khuyến cáo của các chuyên
gia, và các hiệp hội nông nghiệp, cơ quan quản lý không có đủ dữ liệu để có thể
điều chỉnh việc sản xuất và liên kết nông nghiệp thành chuỗi có hiệu quả cáo
hơn. Và khi tình trạng thời tiết, khí hậu cực đoan, ô nhiễm, dịch bệnh xảy ra
ngày càng nhiều hơn thì từng ngành trong nông nghiệp lại rơi vào thế điêu đứng.
Như các từ khoá khác, NNCNC không
phải là mục tiêu của ngành nông nghiệp mà chỉ là một phương thức canh tác, nó
không thể giải quyết được toàn bộ những khó khăn của nền nông nghiệp hiện nay.
Có lẽ hơn cả, từ khóa mà chúng ta cần thúc đẩy phải là “nông nghiệp bền vững”. Bền
vững đến từ sự hài hoà, sự hài hoà đến từ việc từ bỏ tư duy chạy theo một cực
kinh tế, từ bỏ tư duy coi phát triển là một cuộc đua để đuổi theo những lợi ích ngắn
hạn.
Trên góc nhìn tổng quan, chúng tôi đề xuất năm trụ cột của
ngành nông nghiệp cần quan tâm để có sự phát triển bền vững, đó là: Thị trường; Tổ chức sản xuất; Công nghệ; Tài
chính; Nguồn nhân lực. Theo đó, công nghệ cao áp dụng trong nông nghiệp
cũng chỉ là một trụ cột và cần phải hài hoà với tổng thể, nhưng nó sẽ cung cấp
công cụ có khả năng liên kết các trụ cột kia lại.
Hãy hình dung một hệ thống quản lý nông nghiệp trong đó ở mức
độ vi mô – các nông dân, trang trại, doanh nghiệp ứng dụng những phương thức
công nghệ phù hợp để tăng chất lượng, năng xuất và giá trị sản phẩm mà vẫn đảm
bảo sử dụng tối ưu tài nguyên và giảm tác động môi trường. Nông nghiệp sẽ không
đi một mình mà liên kết với các ứng dụng tiến bộ từ công nghệ thông tin, IoT,
AI,… để hình thành những chuỗi giá trị cao hơn, hoạt động liên tục trong một
vòng lặp có phản hồi từ sản xuất, đến vận tải, phân phối, và tiêu dùng.
Nông
nghiệp sẽ đòi hỏi nguồn nhân lực có trình độ cao hơn và các phương thức huy động
vốn thuận tiện hơn. Và ở tầm vĩ mô, khi có những cơ sở dữ liệu quốc gia về nông
nghiệp kết nối với nhau mà người dân có thể truy cập, những nhà quản lý và ra
quyết định sẽ biết được tình hình sản xuất, chất lượng cung ứng, tác động môi
trường-xã hội, để từ đó đưa ra những phân tích nhu cầu, dự đoán giá và điều chỉnh
nền nông nghiệp một cách hài hòa.