Không khí trong nhà đầy rẫy virus cúm và corona. Đại dịch COVID-19 là cú hích buộc nhiều nước phải có lộ trình cải thiện chất lượng không khí mà người dân hít thở.
Những quy định mới
Theo luật mới được ban hành, vào tháng 7 tới, các quán bar
ở Bỉ có thể là một trong những nơi trong lành nhất để thưởng thức đồ ăn thức uống. Khi đó, các địa điểm công cộng phải đáp ứng tiêu chí về chất lượng không khí
trong nhà và hiển thị nồng độ CO2 theo thời gian thực. Đến năm 2025, người tiêu dùng ở Bỉ sẽ nhận được nhiều thông tin hơn vì các phòng tập thể dục, nhà hàng và văn phòng đều phải hiển thị xếp hạng chất lượng không khí thông qua một hệ thống được chứng nhận. Nếu một đại dịch xảy ra trong tương lai, hệ thống này sẽ xác định được liệu một địa điểm có phải đóng cửa hay không.
Quy định mới này của Bỉ
được coi là táo bạo nhất trong một loạt động thái mà các quốc gia thực hiện
trong thời kỳ đại dịch COVID-19 nhằm khiến không khí trong nhà an toàn hơn với
các bệnh truyền nhiễm do virus.
Tháng ba năm ngoái, Chính phủ Mỹ đã phát động một chương
trình “Thử thách không khí sạch trong các tòa nhà” để thúc đẩy chủ sở hữu và
đơn vị vận hành tòa nhà cải thiện hệ thống thông gió và chất lượng không khí
trong nhà. Vào tháng mười, bang California thông qua một đạo luật yêu cầu tất cả
các tòa nhà, trường học phải cung cấp không khí sạch trong nhà. Đến tháng 12,
Nhà Trắng thông báo rằng tất cả các tòa nhà liên bang (khoảng hơn 1.500 tòa
nhà) sẽ phải đáp ứng những yêu cầu an toàn vệ sinh không khí tối thiểu. Cùng
tháng đó, Hiệp hội về phát triển kỹ thuật các hệ thống sưởi ấm, làm lạnh, thông
gió, điều hòa không khí Mỹ (ASHRAE) tuyên bố họ sẽ đưa ra những tiêu chuẩn mới
có tính đến nguy cơ lây nhiễm bệnh qua không khí vào tháng 6/2023.
Ở Anh, Viện Hàn lâm Kỹ thuật Hoàng gia (RAEng) công bố một báo cáo cho thấy việc cải tiến thiết kế và vận hành tòa nhà nhằm giảm thiểu lây lan bệnh truyền nhiễm có thể tiết kiệm cho quốc gia 23 tỷ bảng mỗi năm. Từ đó, họ kêu gọi chính quyền phải thiết lập các quy định ràng buộc nhằm duy trì hiệu suất an toàn và lành mạnh trong suốt vòng đời của tòa nhà (60 năm).
Một số quốc gia khác cũng đang cố gắng theo chân các nỗ lực
cải thiện chất lượng không khí trong nhà, chẳng hạn như thực hiện giám sát chất
lượng không khí trong lớp học.
“Từ trước tới nay, chưa bao giờ có nhiều hành động về chất lượng không khí trong nhà như vậy” Lidia Morawska, nhà khoa học về sol khí tại Đại học Công nghệ Queensland (Úc) nhận xét. Các chuyên gia về chất lượng không khí trong nhà cho biết, virus SARS-CoV-2 gây bệnh COVID-19 chủ yếu lây lan ở không gian kín, tương tự như các mầm bệnh lây nhiễm thủy đậu, sởi, lao và cúm mùa.
Bao nhiêu không khí sạch
là đủ?
Việc trang bị thêm công nghệ cho các tòa nhà, văn phòng, trường
học và địa điểm công cộng để có bầu không khí sạch ở mức đủ dùng sẽ rất tốn kém
và không hề đơn giản, mặc dù lợi ích đem lại sẽ nhiều hơn chi phí bỏ ra.
Thông
khí để giảm nguy cơ bệnh lây nhiễm cũng giúp cho người dân ít phải tiếp xúc với
những chất ô nhiễm không khí trong phòng hơn (ví dụ các hạt bụi mịn PM từ khói
đốt và nấu ăn; hợp chất hữu cơ dễ bay hơi từ đồ dùng, nội thất; nấm mốc, phấn
hoa gây dị ứng) nhưng nó cũng có thể làm tăng chi phí năng lượng và góp phần
phát thải khí nhà kính cho các công trình.
Các nhà nghiên cứu vẫn đang xác định xem đâu là cách tốt nhất
để thông khí trong nhà nhằm ngăn ngừa bệnh truyền nhiễm và những công nghệ nào
có thể sử dụng để thay thế hoặc tăng cường cho hệ thống thông gió cơ học vốn
có. Nhưng nhiều người tin rằng những gì chúng ta đã biết là đủ để bắt tay vào
đòi hỏi không khí hơn cho các tòa nhà.
Đây thực sự là một cuộc chạy đua với thời gian, bởi khi mối
lo ngại về COVID-19 giảm dần, các chuyên gia tự hỏi liệu các nước sẽ đạt được
tiến độ đến đâu trước khi một đợt bùng phát bệnh truyền nhiễm qua đường không
khí nổ ra.
Hồi đầu năm 2020, lúc COVID-19 đạt đến mức đại dịch, các
quan chức y tế đã không chú ý nhiều đến những rủi ro của không khí trong nhà.
Ban đầu, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) bác bỏ vai trò của lây truyền qua không
khí và tập trung vào việc lây truyền qua các bề mặt bị ô nhiễm. Nhưng ngay cả
khi các cơ quan y tế công cộng bắt đầu khuyến nghị cần thông gió tốt hơn để
ngăn ngừa nhiễm trùng thì họ cũng chỉ đưa ra những hướng dẫn mơ hồ và không nói
được bao nhiêu là đủ?
Joseph Allen tại Trường Y tế Công cộng Harvard là một trong
những người đầu tiên đưa ra giá trị về mức độ thông gió mà mọi người cần làm.
Vào tháng 6/2020, ông cùng các đồng nghiệp khuyến nghị rằng những trường muốn mở
cửa trở lại sau khi lockdown phải thay toàn bộ không khí trong phòng học 4-6 lần
mỗi giờ. Điều này tương đương với tốc độ thông khí từ 10-14 lít mỗi giây mỗi
người. Tuy nhiên, hầu hết các trường đều không đạt được mức này, thậm chí là thấp
hơn rất nhiều. WHO đã ban hành một hướng dẫn riêng vào tháng 3/2021, khuyến nghị
rằng tốc độ thông gió ở bên ngoài các cơ sở chăm sóc sức khỏe nên là 10 lít mỗi
giây mỗi người.
Về lý thuyết, đại dịch tạo cơ hội hoàn hảo để thu thập dữ liệu
để xem tỷ lệ thông gió thấp có liên quan đến các đợt bùng phát dịch hay không,
và tốc độ thông gió bao nhiêu sẽ làm giảm tỷ lệ lây nhiễm. Nhưng các quan chức
y tế hiếm khi cân nhắc đến vấn đề này. Yuguo Li, một kỹ sư cơ khí tại Đại học Hồng
Kông, ước tính có chưa đến 10 cuộc điều tra đo lường tốc độ thông gió ở những địa
điểm xảy ra dịch bệnh vì sự lây truyền trong không khí không nằm trong tầm ngắm
của mọi người.
Thay vào đó, các nhà nghiên cứu cố gắng thu thập manh mối
thông qua các nghiên cứu quan sát. Lidia Morawska đã tham gia vào một cuộc khảo
sát 10.000 lớp học ở vùng Marche của Ý. Trong 316 lớp học có hệ thống thông gió
cơ học với tốc độ 1,4–14 lít mỗi giây mỗi người, nguy cơ lây nhiễm của học sinh
đã giảm ít nhất 74% trong khoảng thời gian bốn tháng vào cuối năm 2021, so với
học sinh trong các lớp học dựa vào cửa sổ để thông gió (tốc độ thông gió ít hơn
1 lít mỗi giây mỗi người). Tóm lại, theo Morawska, khi tỷ lệ thông gió đạt ít
nhất 10 lít mỗi giây cho mỗi học sinh thì nguy cơ nhiễm bệnh cũng thấp hơn tới
80%.
Các bằng chứng về công nghệ loại bỏ hạt truyền nhiễm trong
không khí cũng đang ngày một nhiều hơn. Chẳng hạn, các nhà khoa học của CDC Mỹ
đã làm một nghiên cứu xem xét hiệu quả của hai máy lọc không khí có màng lọc hấp
phụ hiệu năng cao (HEPA) được đặt trong một phòng hội nghị 54m2 với ba hình nộm
mô phỏng khán giả và diễn giả thở ra các hạt sol khí tương tự như các hạt truyền
SARS-CoV-2. Kết quả cho thấy, máy lọc khí HEPA đã giảm mức độ tiếp xúc sol khí
của ba hình nộm tới 65%, chỉ kém một chút so với mức giảm 72% đạt được khi tất
cả những người/hình nộm tham gia hội thảo đeo khẩu trang.
Một nghiên cứu khác của Bert Blocken tại Đại học KU Leuven ở
Bỉ cho thấy thông khí kết hợp với lọc khí (tương đương sáu lần thay đổi không
khí mỗi giờ) sẽ làm giảm nồng độ sol khí thở ra xuống còn 5-10% so với khi
không áp dụng các biện pháp này. Nồng độ này làm giảm đáng kể nguy cơ nhiễm
trùng.
Ông nói thêm rằng máy lọc không khí là một công nghệ bị đánh giá thấp.
Nó có thể dễ dàng triển khai trong các tòa nhà không có hệ thống thông gió cơ học
đủ khả năng cung cấp đủ không khí sạch, hoặc ở những nơi mà việc vận hành các hệ
thống thông khí/điều hòa như vậy sẽ tiêu tốn quá nhiều năng lượng. Bang
Victoria ở Úc đã thực hiện cách tiếp cận này bằng cách phân phối máy lọc không
khí di động cho tất cả 110.000 lớp học vào năm 2022.
Đặt ra trần pháp lý
Những yêu cầu về thông gió có thể rất phức tạp vì chúng thay
đổi tùy thuộc vào diện tích không gian, số lượng người trong đó và mức độ hoạt
động của họ. Vì vậy, một số nhà nghiên cứu ủng hộ việc sử dụng một lối tắt là đặt
ra nồng độ CO2 cho phép tối đa.
CO2 thường được dùng làm chỉ số đại diện cho mức
độ thông gió và chất lượng không khí trong nhà vì mọi người đều thở ra CO2
. Chỉ số này có thể tăng vọt lên nếu không gian đông đúc hoặc không đủ thông gió
để thay đổi không khí.
ASHRAE đưa ra tiêu chuẩn khuyến nghị nồng độ CO2
được duy trì ở mức ≤1000 ppm trong trường học và ≤800 ppm trong văn phòng. Theo
nghiên cứu được thực hiện vào những năm 1930, ở nồng độ 1000 ppm, những người
trong phòng có thể cảm nhận được mùi cơ thể ở mức chấp nhận được. Nếu quá nồng
độ này, CO2 có thể gây buồn ngủ và làm giảm hiệu suất khi ra quyết định
hoặc giải quyết vấn đề. Một nghiên cứu được công bố vào tháng 9/2022 (chưa qua
bình duyệt) còn liên hệ trực tiếp nồng độ CO2 với mức độ mầm bệnh
truyền nhiễm trong không khí thu được ở các nhà trẻ, trường học, đại học và nhà
dưỡng lão. Kết quả cho thấy những căn phòng có nồng độ CO2 cao hơn
thì mức độ mầm bệnh hô hấp cũng cao hơn.
Vào tháng 8/2021, Chính phủ Anh đã bắt đầu lắp đặt các cảm
biến CO2 cho tất cả lớp học để giáo viên có thể quyết định thời điểm
nào cần mở cửa sổ hoặc tăng thông gió/điều hòa. Những chương trình tương tự
cũng được triển khai tại châu Âu, Mỹ và nhiều nơi khác, mặc dù chưa có chương
trình nào được đánh giá về khả năng giảm tỷ lệ lây nhiễm.
Tuy nhiên, việc chỉ dựa vào thông số CO2 cũng có
nhược điểm. Nồng độ CO2 có thể tăng lên ngay cả khi nguy cơ nhiễm
trùng vẫn ở mức thấp, ví dụ như khi dùng máy lọc không khí di động (có thể loại
bỏ các hạt gây nhiễm trùng nhưng không loại bỏ CO2 từ không khí) hoặc
khi nấu ăn. Nhà hóa học Nicola Carslaw tại Đại học York nhận xét: “CO2
rất hữu ích, nhưng nó không phải là toàn bộ câu chuyện”.
Bất chấp vấn đề này, Lidia Morawska cho rằng việc giám sát
CO2 nên được triển khai rộng rãi như một công cụ sẵn có, rẻ tiền, có
thể lắp đặt ở mọi không gian trong nhà giống như thiết bị báo khói. Nhưng bà
nói thêm, chỉ hiển thị thông số CO2 là không đủ bởi nó sẽ đặt trách
nhiệm theo dõi chất lượng không khí và quyết định phải làm gì nếu chỉ số cao
lên những người sinh hoạt trong phòng.
Morawska muốn thấy các luật bắt buộc mức CO2 cho
phép tối đa trong các tòa nhà công cộng để đặt trách nhiệm lên cả những người
quản lý tòa nhà và các cơ quan của chính phủ. Một số ít nước đã làm điều đó.
Năm ngoái, Morawska và đồng nghiệp tại Đại học Bắc Kinh đã xem xét luật về chất
lượng không khí tại hơn 100 quốc gia. Họ thấy chỉ có 12 nước có tiêu chuẩn quốc
gia về chất lượng không khí trong nhà, và tám nước trong số đó, bao gồm cả
Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ, Ba Lan và Hungary, đặt ra giới hạn cho nồng độ CO2
từ 800 - 1000 ppm.
Nhật Bản cũng đã ban hành luật quy định về chất lượng không
khí trong nhà từ năm 1970 với nồng độ CO2 không quá 1000 ppm. Luật
này yêu cầu các quản lý tòa nhà phải đánh giá chất lượng không khí hai tháng một
lần, báo cáo kết quả cho chính phủ và thiết lập các kế hoạch khắc phục nếu chất
lượng không khí không đáp ứng các tiêu chuẩn. Nhưng gần 30% các tòa nhà ở Nhật
vượt quá nồng độ CO2 giới hạn, theo báo cáo năm 2020.
Nói thế không có nghĩa là quy định của Nhật Bản không hiệu
quả. Kazukiyo Kumagai, một chuyên viên y tế công cộng tại Sở Y tế California
cho biết, Nhật Bản đang “ở trong tình trạng tốt hơn” so với Hoa Kỳ khi nói đến
chất lượng không khí trong nhà. Việc áp dụng cách tiếp cận về chế độ giám sát
và báo cáo thường xuyên như Nhật Bản có thể hiệu quả ở những quốc gia khác.
Việc đặt ra các giới hạn pháp lý đang dần trở nên phổ biến
hơn. Ví dụ, luật mới của Bỉ quy định rằng các địa điểm công cộng phải thông gió
với tốc độ 40m3 khí trên giờ để nồng độ CO2 không vượt quá 900 ppm.
Nếu dùng máy lọc không khí thì tốc độ thông gió thấp hơn 25m3 một giờ là đủ và
nồng độ CO2 có thể đạt mức tối đa 1200 ppm.
Thực tế, quy định về chất lượng không khí trong nhà là điều
rất “lắt léo”. Catherine Noakes tại Đại học Leeds, người đã đóng góp chuyên môn
vào báo cáo quốc gia về khả năng chống lây nhiễm trong các tòa nhà ở Anh, nhận
xét: “Một trong những thách thức với không khí trong nhà là ai sở hữu nó?”.
Trách nhiệm này có thể san sẻ giữa các cơ quan ban ngành,
tùy thuộc vào cách các tòa nhà được sử dụng. Chẳng hạn, không khí trong nhà ở
trường học có thể là trách nhiệm của Bộ Giáo dục, trong khi các tòa nhà văn
phòng có thể được quy định bởi cơ quan về an toàn và sức khỏe nghề nghiệp.
Đó là tình hình ở Mỹ, nơi hiện nay không có cơ quan nào có
thẩm quyền điều chỉnh chất lượng không khí trong nhà. Ở Bỉ cũng vậy, luật quốc
gia mới không bao gồm các trường học, vốn là trách nhiệm của chính quyền từng
vùng. Và ở Nhật Bản cũng có một quy định riêng cho các tòa nhà trường học, cho
phép mức giới hạn CO2 cao hơn là 1500 ppm, một mức mà nhiều người
coi là quá lớn.
Thiết lập các tiêu
chuẩn
Trong trường hợp không có luật pháp quốc gia, các tổ chức,
hiệp hội chuyên môn có thể đặt ra những tiêu chuẩn liên quan đến chất lượng
không khí trong nhà. Khi hiệp hội ASHRAE (Mỹ) công bố tiêu chuẩn nhằm giảm thiểu
nguy cơ lây nhiễm vào tháng sáu năm nay, người ta hy vọng rằng những mục tiêu
được khuyến nghị sẽ được áp dụng vào quy tắc xây dựng các tòa nhà mới tại địa
phương.
ASHRAE có thể phải đối mặt với một số phản đối. Chủ tịch hiệp
hội nói rằng trước kia, khi ASHRAE tăng yêu cầu thông gió từ 5 feet khối mỗi
phút lên 15 feet khối mỗi phút (tức 2,4 lít khí mỗi giây lên 7,1 lít mỗi giây)
thì nhiều người ở những vùng ấm nóng của Mỹ đã rất tức giận vì nó làm tăng chi
phí điều hòa. Cuối cùng, hội đồng trường học ở địa phương thông qua phán quyết
rằng các lớp học chỉ cần đạt thông gió là 7,5 feet khối.
Dù cho các tiêu chuẩn ASHRAE không được thực thi thì chúng
cũng sẽ tạo ra sự khác biệt, Joseph Allen nói. Ngoài việc ảnh hưởng đến cách
xây dựng các tòa nhà, các tiêu chuẩn nghiêm ngặt hơn của ASHRAE cũng phát đi
tín hiệu mạnh mẽ đến các doanh nghiệp trong những tòa nhà cũ về một tiêu chuẩn
vàng cho chất lượng không khí trong nhà.
Các nhà nghiên cứu cho rằng sẽ mất nhiều thời gian để giảm nguy cơ lây nhiễm bên trong các tòa nhà, có thể lên tới 20-30 năm. Nhưng chúng ta đang nói về tương lai của xã hội và điều này là cần thiết.
Hồng Hạnh lược dịch
Theo Nature