Năm 2015, khi còn đang ngồi trên giảng đường đại học, Virginia Emery bắt đầu nuôi ấu trùng sâu bột (mealworm) – loài bọ chuyên phá hoại ngũ cốc, thuộc chi Tenebrio – ở sân sau nhà. Để rồi sau đó, nó đã phát triển thành một cơ sở sản xuất quy mô 9000 m2, với giá trị lên tới 3 triệu USD, mang tên Beta Hatch.

“Là một nhà côn trùng học, bạn thường phải giành đến 99% thời gian để giết sâu bọ, chẳng hạn nghiên cứu phát triển thuốc trừ sâu. Nhưng tôi lại muốn đưa chúng vào hệ thống sản xuất thức ăn, bởi chúng chính là mắt xích cơ sở của hầu hết các chuỗi thức ăn,”Emery giải thích.

Virginia Emery, nhà sáng lập kiêm CEO Beta Hatch.

Virginia Emery, nhà sáng lập kiêm CEO Beta Hatch.

Tốt nghiệp PhD về di truyền học sâu bọ và truyền thông hóa học, Emery đang khá nổi tiếng ở tiểu bang Washington với danh hiệu The Bug Lady (Quý cô Bọ). Mặc dù một số mô hình nuôi côn trùng tương tự cũng đang được triển khai tại Bắc Mỹ, nhưng chúng hầu hết đều chỉ tập trung vào đối tượng ruồi lính đen. “Tuy lớn chậm hơn, nhưng sâu bột lại thích ứng tốt với loại thức ăn khô, vì thế có thể được nuôi ở mật độ dày, cho ra những sản phẩm rất có giá trị không thua gì ruồi lính đen như bột và dầu côn trùng, thậm chí còn chứa hàm lượng chất béo và chất lượng protein cao hơn,” cô cho biết.
Sau 5 năm khởi nghiệp, Beta Hatch đã đạt được những bước tiến đáng kể. “Chúng tôi đã rút ngắn được khoảng ¼ thời gian của toàn bộ quy trình, cho phép thu hoạch ấu trùng chỉ sau 8 tuần nuôi. Bên cạnh số lượng trứng đẻ gần như nhiều gấp đôi, chúng tôi còn cho nhân giống rất nhiều để phục vụ hoạt động nghiên cứu,” Emery nói. Ban đầu, cô cũng áp dụng các kỹ thuật tuyển chọn họ côn trùng truyền thống, nhưng kết hợp thêm tri thức của lĩnh vực hệ gen học (genomics) trong suốt 18 tháng qua để giải toàn bộ trình tự gen của sâu bột, và kỳ vọng nó sẽ hữu ích cho cả công ty lẫn cộng đồng nuôi sâu bọ.

Ấu trùng sâu bột, được sử dụng làm thức ăn trong nuôi trồng thủy sản. Ảnh: Dana Robinson.

Ấu trùng sâu bột, được sử dụng làm thức ăn trong nuôi trồng thủy sản. Ảnh: Dana Robinson.

“Chúng tôi sẽ công bố kết quả trên tập san truy cập mở Journal of Insects as Food and Feed ngay trong mùa hè này, nhằm khuyến khích thêm nhiều nghiên cứu, bao gồm diễn dịch đúng trình tự gene, nhằm thúc đẩy sự phát triển của ngành. Ngoài ra, chúng ta còn cần thêm những cơ sở nghiên cứu côn trùng cấp quốc gia, do nhà nước hoặc tư nhân sáng lập, để có thể đạt được những bước tiến xa hơn nữa,” Emery nhận định. Trong bối cảnh Covid-19 bùng phát, mục tiêu gọi vốn 3 triệu USD thực sự không hề dễ dàng, và bản thân cô còn có những ưu tiên khác cần phải cân nhắc.

“Tình hình trở nên khó khăn hơn. Trên thực tế, chúng tôi đã phải thương lượng lại các điều khoản để đảm bảo nguồn tài chính. Tôi cũng vừa sinh em bé đầu lòng hồi đầu năm, vì thế những trải nghiệm trong mấy tháng qua quả hết sức thú vị,” Emery chia sẻ. Mặc dù vậy, cô tin tưởng việc thành lập cơ sở thử nghiệm bằng nguồn tiền ở vòng gọi vốn đầu tiên sẽ tạo nên sự khác biệt.

“Nhà đầu tư thường mong muốn xem cách hệ thống vận hành trước khi quyết định xuống tiền. Vì thế, chúng tôi đã sớm gây dựng một cơ sở tiền thương mại bằng tiền seed funding (nguồn vốn đầu tiên mà startup có thể nhận được sau tiền túi của chính những sáng lập viên, thường có giá trị khiêm tốn, chủ yếu để giúp start-up trang trải chi phí và duy trì hoạt động trong giai đoạn đầu),”Emery cho biết.

Cô viện dẫn sự quan tâm của một số nhà sản xuất thức ăn thủy sản lớn trên thế giới đối với sâu bọ. “Chúng tôi tin chiến lược của mình sẽ mang lại hiệu quả. Cả Skretting và Cargill (hai tên tuổi hàng đầu thế giới trong ngành thức ăn chăn nuôi) đều đang đầu tư vào những nghiên cứu về tiềm năng ứng dụng của côn trùng. Chúng tôi cũng đang kêu gọi Wilbur Ellis (một trong ba cổ đông chính) tăng vốn, vì họ đã có khá nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực này. Một tín hiệu tích tực là tất cả các nhà đầu tư đều bày tỏ sự ủng hộ, dù theo những cách khác nhau. Điều đó lại càng trở nên ý nghĩa trong bối cảnh đại dịch, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phải điều chỉnh chuỗi cung ứng thức ăn.”

Thành công của mô hình nuôi sâu bột tiền thương mại của Beta Hatch rất quan trọng trong việc đảm bảo vòng gọi vốn mới nhất của họ.

Thành công của mô hình nuôi sâu bột tiền thương mại của Beta Hatch rất quan trọng trong việc đảm bảo vòng gọi vốn mới nhất của họ.

Một khi đi vào hoạt động, cơ sở sản xuất mới của Beta Hatch sẽ có công suất lên đến một tấn sâu bột mỗi ngày, biến công ty thành nhà sản xuất thức ăn chăn nuôi lớn nhất Bắc Mỹ. Hai tên tuổi lớn và lâu năm hơn, Enterra (Canada) và Enviroflight (Kentucky), chủ yếu chỉ tập trung vào ruồi lính đen. Tuy nhiên, quy mô của cả ba vẫn còn khá khiêm tốn so với các đại gia Châu Âu như Ynsect và Protix.

“Mỹ đang chậm chân hơn so với châu Âu, một phần cũng do sự dè dặt của giới đầu tư. Tôi nghĩ chúng ta đang bỏ sót một tiềm năng lớn,” Emery trăn trở. Tuy nhiên, cô lạc quan rằng Beta Hatch vẫn còn rất nhiều dư địa để phát triển. “Hiện tại, đang có không ít sự quan tâm giành cho lĩnh vực này, và chúng tôi cũng đã lên kế hoạch mở rộng ra toàn quốc. Sau dịch, tôi dự đoán chúng ta sẽ chứng kiến thêm nhiều vụ đầu tư hơn vào chuỗi thức ăn, bởi nhu cầu cần đa dạng hóa nguồn cung,” Emery nhận định. Mặc dù hài lòng với những thành quả đã đạt được, nhưng cô kỳ vọng công ty của mình sẽ phát triển mạnh mẽ hơn nữa.

“Cách đây không lâu, khi còn nuôi sâu bọ tại sân sau nhà, tôi khó có thể nghĩ nó sẽ lớn như hiện nay, với trình độ tự động hóa ngày càng cao. Thách thức của chúng tôi sắp tới là cần mở rộng thêm nữa, đồng thời cắt giảm chi phí để cải thiện hiệu suất,” Emery kết luận.

Nguồn: