Từng bị đổ lỗi là những kẻ “cướp việc” của con người nhưng trong cuộc chiến corona, các con robot được nhìn nhận như những anh hùng mới với khả năng làm việc hiệu quả, nhanh nhạy, không bị virus SARS-CoV2 lây nhiễm nên có thể giảm tải cho lực lượng y tế, dịch vụ trong khu vực nguy hiểm.
Không chỉ ở Mỹ hay Trung Quốc, những nơi đi tiên phong trong việc đưa robot vào hỗ trợ ngành y trong cuộc chiến COVID19 mà ngay cả ở Ý, quốc gia có lượng người chết và nhiễm virus hàng đầu châu Âu, nười ta đã chứng kiến chiến công thầm lặng của các cỗ máy. Các bác sĩ và y tá yêu chúng bởi chúng đã góp phần cứu mạng sống của họ. Mới đây, Bộ Y tế Ý đã tiết lộ, ít nhất 70 bác sĩ và y tá nước này đã qua đời vì bị lây nhiễm virus trong khi đang nỗ lực điều trị các bệnh nhân.
Đó là nguyên nhân giải thích vì sao ở bệnh viện Varese tại vùng gần biên giới Thụy Sĩ, từ y tá đến bác sĩ đều nở nụ cười tươi rói sau khẩu trang vải khi thấy những người bạn mới, robot. Bệnh viện Varese đón nhận sáu cỗ máy có bánh lăn và màn hình hiển thị với vô số cảm biến được cài đặt bên trong để giúp họ thực hiện một số nhiệm vụ: phát thuốc, hướng dẫn, giám sát bệnh nhân trong các khu chăm sóc đặc biệt cũng như khu hoạt động chung, thậm chí có thể mang đến những nụ cười cho những bệnh nhân nhi đồng – điều quý giá dường như không còn tồn tại ở lằn ranh giữa sự sống và cái chết, giữa bệnh tật và nỗi sợ hãi. “Robot là những trợ tá không biết mệt mỏi, không bao giờ bị ốm và không bị nhiễm virus”, Francesco Dentali, giám đốc bộ phận chăm sóc tập trung của bệnh viện, nhấn mạnh.
Cuộc chiến lặng lẽ của robot
Trước khi robot được sử dụng rộng rãi ở nhiều nơi nhằm hỗ trợ con người chống lại đại dịch, một nhóm các nhà nghiên cứu hàng đầu về robot, trong đó có Henrik Christensen, giám đốc Viện nghiên cứu Robotics thuộc trường Đại học San Diego đã có một bài viết trên Science Robotics về vai trò của những cỗ máy đặc biệt này. “Ngay lập tức, chúng tôi đã thấy robot hết sức phù hợp với các công việc nguy hiểm như khử khuẩn, chuyên chở đồ ăn, thuốc men, góp phần kiểm soát biên giới”, nhóm tác giả viết.
Khi nhìn vào dịch Ebola năm 2015, các hội thảo do Văn phòng Chính sách KH&CN của Nhà Trắng và Quỹ Khoa học quốc gia Mỹ tổ chức đã xác định được ba lĩnh vực mà robot có thể tham gia và tạo ra sự khác biệt: chăm sóc lâm sàng, đặc biệt phương thức điều trị từ xa (telemedicine); vận chuyển thuốc, đồ ăn, rác thải y tế; giám sát bệnh nhân trong các khu cách ly… Tuy nhiên COVID 19 đã mở ra một khía cạnh mới, tiếp tục hoạt động và giữ vững các chức năng kinh tế xã hội, đó là việc tăng cường dùng robot trong các nhà máy, khu vực sản xuất để không ảnh hưởng đến kinh tế, dùng robot để lau dọn và khử khuẩn…
Henrik Christensen, giáo sư của Khoa khoa học máy tính và kỹ thuật UC San Diego, nhấn mạnh đến vai trò khử khuẩn của robot trong bối cảnh Mỹ và nhiều quốc gia khác đang thiếu những đội quân hằng ngày phải làm sạch các khu vực bị nghi có virus cũng như các khu cách ly. “Do COVID-19 có một đặc điểm là không chỉ lây từ người sang người thông qua những giọt bắn từ mũi và miệng giữa cá nhân với cá nhân mà còn qua việc tiếp xúc với bề mặt có virus, cần phải khử trùng các bề mặt bằng tia cực tím. Robot được điều hướng thông minh và khả năng dò được các khu vực có nguy cơ nguy hiểm có thể hỗ trợ chúng ta việc này. Những thế hệ robot mới ở mọi quy mô kích thước như lớn, nhỏ và siêu nhỏ có thể khử trùng một cách liên tục, không chỉ loại bỏ bụi như chúng ta vẫn thấy với các robot lau nhà thông thường mà còn có thể khử trùng mọi bề mặt cần thiết”, ông và các nhà khoa học viết. Ví dụ, Trung tâm Kiểm soát và ngăn ngừa bệnh dịch Mỹ (CDC) gửi các cỗ máy có thể tới du thuyền Diamond Princess để dọn dẹp và kiểm tra độ an toàn sau nhiều tuần trở thành ổ bệnh.
Robot xuất hiện ở khắp mọi nơi trong cuộc chiến COVID-19. Với việc chẩn đoán và sàng lọc, các robot cơ động có những hệ thống camera và cảm biến tự động đo được nhiệt độ của người qua lại các khu vực công cộng và khu vực ra vào sân ga, bến tàu. Chúng là công cụ hữu hiệu để sàng lọc người có nguy cơ phơi nhiễm với người khỏe mạnh, trước khi tiếp tục phân loại họ bằng các xét nghiệm. Mặt khác, các robot ở bệnh viện còn có khả năng đo được nhiệt độ của những bệnh nhân ra viện/xuất viện và nối thông tin đó với hệ thống thông tin bệnh viện. Nó sẽ đi kèm với hệ thống nhận diện hình ảnh để sẵn sàng truy dấu người nhiễm và cảnh báo nếu nhận ra ai đó đang có nguy cơ bị nhiễm.
Robot dẫn đến những đổi mới tiếp theo
Với sự xuất hiện của robot trên các trận tiền, COVID-19 đã trở thành chất xúc tác quan trọng để phát triển các hệ robot thế hệ mới để có thể hỗ trợ con người một cách nhanh chóng hơn tại những khu vực thiết yếu và các công việc nguy hiểm. Điều này dẫn đến những cơ hội nghiên cứu mở rộng chức năng của robot, đem lại những đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực này, Lesley Rohrbaugh, giám đốc nghiên cứu của Hội Công nghệ tiêu dùng Mỹ, dự đoán. “Chúng ta đang ở trong thời điểm cần kíp phải có công nghệ này, vì vậy dường như nó đem lại nhiều lợi ích cho chúng ta”, bà nhận xét.
Theo quan sát của bà, những kỹ thuật liên quan đến robot như trí tuệ nhân tạo, cảm biến và những năng lực cần thiết để thiết kế và chế tạo robot sẽ được thúc đẩy đầu tư nghiên cứu, và dĩ nhiên cần đạt đến những yêu cầu mới trong kết nối internet tốc độ cao.
Những đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực này sẽ còn thúc đẩy cả việc dùng thiết bị bay không người lái có gắn các cảm biến và camera để có thể quét mặt người trong đám đông để tìm dấu hiệu đặc biệt ở những người có những triệu chứng nhiễm bệnh thông qua một thuật toán. Ví dụ hiện nay một nhóm nghiên cứu ở trường Đại học Nam Australia đang cùng các đối tác Canada bắt tay vào thực hiện một dự án như thế với sản phẩm mang tên Graganfly. “Việc sử dụng nó sẽ giúp ngành y có thể nhận diện được virus thông qua việc quan sát con người. Nó có thể giúp hình thành những hệ thống cảnh báo sớm hoặc hình thành về mặt thống kê xem có bao nhiêu người đã bị nhiễm trong một nhóm người”, giáo sư Javaan Singh Chahl của trường ĐH Nam Australia nói.
Về mặt lịch sử, robot từng được sử dụng để thay thế con người trong những công việc nặng nhọc, nguy hiểm, chủ yếu ứng dụng trong ngành công nghiệp. Vì vậy những nghiên cứu được thực hiện về robot thường đi theo hướng đó. Kinh nghiệm mà các nhà nghiên cứu nhận được từ dịch Ebola và nay là COVID-19 cho thấy xuất hiện một diện rộng các ứng dụng robot trong khi các nghiên cứu liên ngành và đa ngành với mối hợp tác giữa các nhà nghiên cứu và ngành công nghiệp vẫn còn chưa nhiều. Do đó, nhìn về tổng thể, dưới tác động của COVID -19, có thể các hướng nghiên cứu và hợp tác phát triển robot sẽ được tăng cường để có thể sẵn sàng giải quyết được những yêu cầu mới sẽ đến cho đại dịch tiếp theo cũng như các ứng dụng khác mà xã hội cần. Và điều cần thiết lúc này, ngay cả khi đại dịch chưa kết thúc thì ngành nghiên cứu robot và công nghiệp cần bắt tay vào những dự án mới. Các nhà nghiên cứu robot hàng đầu nhận định “Nếu không có một cách tiếp cận bền vững để nghiên cứu, đánh giá nhiều chiều về vai trò của robot thì có thể lịch sử sẽ lặp lại ở một thời điểm nào đó và chúng ta không thể sẵn sàng đối phó với đại dịch tiếp theo”.