Gia nhập thị trường cách đây 10 năm, công ty Cổ phần công nghệ mới Nhật Hải (OIC New) đã làm chủ được công nghệ nano nhũ tương (nano emulsions) với 10 dòng sản phẩm chiết xuất từ các loại thảo dược Việt Nam.

Anh Lưu Hải Minh (trái) trong phòng thí nghiệm chế tạo vật liệu nano. Ảnh: Hải Lý/OIC
Anh Lưu Hải Minh (trái) trong phòng thí nghiệm chế tạo vật liệu nano. Ảnh: Hải Lý/OIC

Chọn hệ dẫn thuốc mới

Thành lập từ năm 2009 với “mong muốn trở thành một công ty về công nghệ”, nhưng phải đến năm 2011, công ty OIC của anh Lưu Hải Minh mới bắt đầu định hướng rõ nét vào công nghệ nano.

Trên thị trường khi ấy cũng đã xuất hiện những sản phẩm chứa nano than hoạt tính lọc nước hay các loại nano bạc, nano đồng, nano sắt… phục vụ trong nông nghiệp nhưng còn rất ít sản phẩm từ công nghệ nano trong y dược.

“Đó là một lĩnh vực rất thách thức vì liên quan đến sức khỏe con người, nhưng lại có tiềm năng khai thác dược liệu quý của tự nhiên và đem lại nhiều lợi ích cho xã hội”, anh Lưu Hải Minh, Chủ tịch kiêm Giám đốc R&D của công ty nhớ lại khi nói về quyết định chuyển từ hoạt động công nghệ thông tin sang lựa chọn con đường này.

Không nóng vội muốn đi nhanh bằng cách mua các sản phẩm ngoại nhập đã hoàn thiện và dán mác của mình vào, anh hiểu rằng một công ty công nghệ đúng nghĩa chỉ có thể tồn tại được nếu nắm chắc công nghệ lõi trong tay.

Với mục tiêu như vậy, anh đã tìm đến những nhà nghiên cứu ở Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam và trường ĐH Bách khoa Hà Nội để triển khai một số dự án cơ bản liên quan đến công nghệ nano.

Thời kì đầu, do không có đội ngũ hữu cơ của mình, công ty phải phụ thuộc hoàn toàn vào đội ngũ nghiên cứu bên ngoài. Mặc dù đây là thuận lợi để một công ty mới như OIC khởi đầu nhưng bản thân điều đó cũng có hai vấn đề: thứ nhất là áp lực tài chính bởi họ phải “đặt hàng” các kết quả nghiên cứu nano nhưng cũng không biết trước được liệu nghiên cứu đó có thể thành công hay thất bại; thứ hai “khi gặp nhà khoa học, họ đã có sẵn ý tưởng nên OIC phải đi theo và không thể thay đổi được gì”, do đó công ty khó có thể “áp đặt” được ý tưởng của mình.

Do đó, anh Lưu Hải Minh quyết định lập ra một đội ngũ R&D riêng. Đó là một nhóm linh động, có thể nhanh chóng đưa ra những ý tưởng nghiên cứu mới gắn với thị trường, liên tục xem xét các đối tượng nghiên cứu và có thể đổi hướng những thử nghiệm có nguy cơ lâm vào bế tắc.

Đội ngũ này bao gồm bản thân anh Lưu Hải Minh cùng anh Bùi Quốc Anh - một thạc sỹ trẻ ngành công nghệ sinh học từ Úc về cùng một vài nhà nghiên cứu khác. Từng bước một, họ cùng nhau học hỏi và tích lũy kiến thức.

Thời kì đầu, những thành viên này sử dụng tất cả các nguồn tư liệu có thể tìm được - từ việc đọc các bài báo khoa học quốc tế, tìm kiếm những hướng dẫn mẫu từ nước ngoài, cho đến tham dự các hội thảo, diễn đàn công nghệ, triển lãm quốc tế về nano ở Singapore, Malaysia và trao đổi với những nhà khoa học, chuyên gia ở đó.

Đây là những khởi đầu để OIC bắt tay vào ý tưởng chiết xuất hoạt chất curcumin từ củ nghệ vàng và đưa nó về kích thước nano dưới dạng lỏng (curcumin nano emulsions).

Với các nhà nghiên cứu nước ngoài và Việt Nam, curcumin là một hoạt chất quen thuộc được tập trung nghiên cứu để tìm hiểu về khả năng làm lành vết thương, kháng khuẩn, chống viêm, hạ cholesterol trong máu, lợi mật, bảo vệ gan và kháng u. Do curcumin khó tan trong nước nên việc đưa curcumin về kích thước nano là cơ hội để các nhà nghiên cứu làm tăng tính sinh khả dụng của nó.

Vì đi sau, các nhà nghiên cứu của OIC chọn một cách làm còn ít được áp dụng ở Việt Nam là tạo hệ dẫn thuốc nano dạng mixen để bao quanh hoạt chất curcumin. “Chúng tôi tạo ra những hạt có kích thước nano, có dạng hình cầu bền vững và tồn tại lâu dài trong môi trường để mang curcumin đi nhưng vẫn phải đảm bảo không làm ảnh hưởng đến hoạt tính của curcumin”, anh Minh giải thích.

Trong suốt một năm, họ đã lặp đi lặp lại hàng nghìn thí nghiệm để tìm ra tỷ lệ chất mang Polyetylen Glycol (PEG), cùng các hoạt chất chuẩn FDA và nước thích hợp nhằm điều chế ra hạt nano nhũ tương. Có những lô thành phẩm tưởng như đã thành công nhưng khi gửi đi kiểm định ở Viện Kiểm nghiệm quốc gia, phát hiện kích thước hạt không đồng đều, các nhà nghiên cứu lại phải bắt đầu lần nữa.

Cuối cùng, bằng một quy trình “đơn giản, dễ thực hiện và phù hợp với điều kiện Việt Nam”, đội ngũ này đã tạo được những hạt curcumin kích thước từ 20-50 nano mét. Quy trình này đã được Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ KH&CN) cấp bằng độc quyền sáng chế số 16095.

Mặc dù không phải là những người đầu tiên chế tạo thành công nano curcumin ở Việt Nam, nhưng OIC đã làm điều khác biệt – chế tạo hạt nano curcumin tồn tại ở dạng dung dịch vi nhũ tương (hàm lượng curcumin trên 10%) thay vì dạng bột như nhiều sản phẩm đã có trên thị trường. Khi được hỏi về lựa chọn này, anh Hải Minh nói rằng “các bài báo quốc tế đều chỉ ra đây là phương pháp tối ưu”.

Nhờ có nền tảng lõi về công nghệ nano nhũ tương, OIC đã nhanh chóng mở rộng phạm vi nghiên cứu và lần lượt cho ra mắt hơn 10 dòng sản phẩm nano “make in Vietnam” với những hoạt chất khác nhau như nano berberin, nano silymarin, nano rutin, nano lutein, nano ginkgo biloba, nano sesamin… Những chất này được tìm thấy trong nhiều loại thảo dược quen thuộc, bao gồm sắn dây, quế, vỏ nho đỏ, kế sữa, hoa hòe, cây dâm dương hoắc, mầm đậu nành….

Các hệ thống phân phối thuốc nanocurcumin khác nhau hiện đang được sử dụng trên thế giới. Các hạt nano của OIC thuộc hệ mixen (micelles) đã được thương mại. Ngoài ra, họ đang phát triển các hạt nano hệ liposome. Ảnh: Front. Pharmacol, 2019
Các hệ thống phân phối thuốc nanocurcumin khác nhau hiện đang được sử dụng trên thế giới. Các hạt nano của OIC thuộc hệ mixen (micelles) đã được thương mại. Ngoài ra, họ đang phát triển các hạt nano hệ liposome. Ảnh: Front. Pharmacol, 2019

Các dòng sản phẩm đi ra từ nghiên cứu – bao gồm các mặt hàng tự thương mại dưới thương hiệu OIC NEW và các loại sản phẩm được phân phối dưới thương hiệu của những đối tác khác – đã nhanh chóng phổ biến ở Việt Nam và vươn ra thị trường Mỹ thông qua trang thương mại điện tử Amazon.

Anh Minh bộc lộ rằng việc xâm nhập vào thị trường Mỹ không dễ dàng, không chỉ cần tuân thủ các đăng ký đáp ứng quy định an toàn thực phầm của FDA, mà còn mất rất nhiều chi phí marketing và thuế xuất. Ngoài Mỹ, năm nay họ đã bắt đầu đưa được một vài sản phẩm ra thị trường Úc, Singapore và Nga qua nhiều kênh khác nhau.

Doanh thu sản phẩm dù không tiết lộ cụ thể nhưng đang ở mức vài triệu USD một năm. Con số này khá ấn tượng đối với một startup nhỏ bé mới chỉ đưa ra thương mại hóa sản phẩm đầu tiên từ cuối năm 2018.

Từ nền tảng công nghề này, OIC đang ngày càng bắt tay với nhiều viện/trường để thực hiện những dự án nghiên cứu ở quy mô lớn hơn. Không chỉ dự định dừng ở mảng công nghệ nano trong y dược, startup này đang nuôi ý tưởng mở rộng sang các lĩnh vực khác kết hợp giữa công nghệ nano với những công nghệ 4.0 như AI, IoT…

Ý thức về tài sản trí tuệ

Khác với nhiều startup thường thiếu kiến thức về sở hữu trí tuệ và chậm trong đánh giá, đăng ký bảo hộ tài sản trí tuệ, có thể nói mức đầu tư cho R&D của công ty lớn đến đâu thì bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ cũng chặt chẽ đến đó. Mỗi nghiên cứu với hoạt chất mới hoàn thành đều ngay lập tức được “ông chủ” Lưu Hải Minh đưa đi đăng ký sở hữu trí tuệ.

Tính đến tháng 6/2021, danh mục quản lý tài sản trí tuệ của công ty đã gồm 11 bằng độc quyền sáng chế, giải pháp hữu ích tại Việt Nam về các quy trình điều chế nano và gần 36 đăng ký sáng chế khác đang trong giai đoạn xét duyệt. Để mở rộng thị trường ở nước ngoài, công ty cũng nộp một số đơn đăng ký sáng chế tại Mỹ.

Việc áp dụng R&D gắn với quyền sở hữu trí tuệ đã giúp OIC đạt được chứng nhận doanh nghiệp KH&CN do Sở KH&CN Hà Nội cấp từ năm 2016. Với sự thừa nhận này của nhà nước, các sản phẩm nano của công ty đều được hưởng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp trong 13 năm*.

“Điều đó đã giúp công ty tăng thêm nguồn lực để tái đầu tư vào R&D cho các dòng sản phẩm tiếp theo hoặc mở ra những lĩnh vực nghiên cứu mới. Cứ như vậy, chúng tôi quay vòng và tiếp tục được hưởng các ưu đãi mới, tạo đà phát triển công ty,” anh Hải Minh cho biết.


________________
Ghi chú:

[*]Doanh nghiệp KHCN được miễn thuế thu nhập trong 4 năm đầu của sản phẩm có hàm lượng khoa học công nghệ và giảm 50% số thuế phải nộp từ doanh thu sản phẩm đó trong 9 năm tiếp theo.