Năm 2018, Việt Nam có 487 công bố ISI trong lĩnh vực KHXH&NV, đứng thứ 49 thế giới; và thứ 4 Đông Nam Á, sau Singapore, Malaysia và Thái Lan.
Ngày 16/1, tại Trường Đại học KHXH&NV TPHCM, Đại học Quốc gia TPHCM phối hợp Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam tổ chức hội thảo khoa học “Công bố quốc tế trong lĩnh vực Khoa học xã hội và nhân văn tại Việt Nam”.
Số lượng khiêm tốn
GS.TS Phạm Quang Minh - Hiệu trưởng Trường ĐH Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội - cho biết, số lượng công bố quốc tế trong lĩnh vực KHXH&NV thuộc danh mục ISI của 15 trường đại học hàng đầu Việt Nam từ năm 2011 - 2015 chỉ có 248 bài.
Số lượng công bố ISI trong lĩnh vực này của Việt Nam tăng dần từ 190 bài năm 2013 lên 487 bài năm 2018, đứng thứ 4 khu vực Đông Nam Á, sau Singapore, Malaysia và Thái Lan. Mặc dù công bố quốc tế ISI trong lĩnh vực KHXH&NV 5 năm qua (2013 – 2018) đã dịch chuyển từ hạng 66 (2013) lên hạng 49 (2018) của thế giới, nhưng vẫn đứng sau ba nước nói trên.
“Các số liệu này cho thấy công quốc tế trong lĩnh vực KHXH&NV của Việt Nam đã đạt được những tiến bộ đáng kể, nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra”- TS. Minh nhấn mạnh.
Tại Trường ĐH Khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội, 9 năm qua, từ 7 công bố quốc tế năm 2010 đã tăng lên 79 bài năm 2018. Số lượng bài báo thuộc danh mục ISI/Scopus từ không có bài nào năm 2010, đã tăng lên 22 bài năm 2018. Tuy nhiên, thực tế là số bài viết, dù tăng lên, vẫn chủ yếu tập trung ở một số tác giả nhất định, là những người đã từng được đào tạo hoặc tu nghiệp ở nước ngoài, thường xuyên có công bố quốc tế.
TS. Minh lấy ví dụ, năm học 2017 - 2018, Trường ĐH Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội có số công bố quốc tế nhiều nhất, nhưng cũng chỉ có 54 cán bộ tham gia viết bài, của 79 bài công bố quốc tế. So với tiềm lực của trường với 380 giảng viên, trong đó có 112 giáo sư và phó giáo sư, 133 tiến sĩ và 147 thạc sĩ thì số người có công bố quốc tế vẫn rất khiêm tốn.
Đối với Trường ĐH Khoa học xã hội và Nhân văn TP.HCM, TS. Huỳnh Văn Thông cho biết, trong danh sách 200 công bố năm 2018 trên các tạp chí quốc tế thuộc danh mục SCI, SCIE và được xếp hạng Q1 của ĐH Quốc gia TP.HCM, không có bài nào thuộc lĩnh vực KHXH&NV. “Điều này cho thấy, năng lực công bố quốc tế rất hạn chế trong lĩnh vực KHXH&NV. Đây cũng là nan đề phức tạp của các trường đại học của Việt Nam”- TS. Thông nhận định.
Nguyên nhân nằm ở quá trình đào tạo
GS.TS Phạm Quang Minh, nguyên nhân xâu xa của thực trạng yếu kém trong công bố quốc tế nằm ở quá trình đào tạo ra các nghiên cứu, từ bậc đại học, cao học và tiến sĩ. Chương trình và phương pháp đào tạo vẫn duy trì như mấy thập kỷ trước. Chưa đào tạo theo hướng nghiên cứu mà vẫn nặng về cung cấp thông tin và kiến thức một chiều.
Do không được làm quen với cách tiến hành một nghiên cứu khoa học, trình bày, kỹ năng viết bài báo khoa học, sinh viên sau tốt nghiệp thường rất lúng túng khi bắt tay vào làm nghiên cứu khoa học – TS. Minh nhấn mạnh.
Theo TS. Minh, sự dễ dãi trong việc đánh giá, đăng bài ở một số tạp chí khoa học có tác động không nhỏ đến chất lượng công bố quốc tế. Bên cạnh đó, một số hội đồng biên tập và biên tập viên thường xem xét, cắt bỏ những yếu tố được coi là “nhạy cảm chính trị” hơn là tập trung vào nội dung chuyên môn khi ra quyết định đăng bài.
“Tình trạng thiếu chuẩn mực quốc tế và ít được đổi mới của phần lớn các tạp chí khoa học trong nước đã tạo ra một lối mòn, tư duy dễ dãi trong viết bài, làm cho chất lượng công bố khoa học chỉ còn là hình thức mà thiếu chất lượng thực sự” – TS. Minh nhấn mạnh.
GS.TS. Nguyễn Thị Cảnh, Trường ĐH Kinh tế - Luật ĐH Quốc gia TPHCM, thì cho rằng, các chương trình nghiên cứu KHXH&NV chưa thực sự gắn kết hiệu quả với các chương trình đào tạo sau đại học, hay nói cách khác là chưa có sản phẩm đào tạo thực tự từ chương trình nghiên cứu. Nguyên do đề tài nghiên cứu thường kéo dài 1 – 2 năm, trog khi nghiên cứu sinh đào tạo phải mất 3 - 4 năm.
Cần khuyến khích sinh viên làm đề tài khoa học
TS. Phạm Quang Minh cho rằng, cần thay đổi căn bản đào tạo ở đại học theo hướng nghiên cứu. Sinh viên năm ba trở đi cần được khuyến khích làm các đề tài khoa học, vừa học, vừa thực hành nghiên cứu và làm báo cáo khoa học dưới sự hướng dẫn của các giáo sư. Ngoài ra, cần có chính sách hỗ trợ về ngôn ngữ đối với các công bố quốc tế.
“KHXH&NV không chỉ là câu chuyện mà là ý tưởng, tư tưởng, tranh luận bằng ngôn từ khoa học. Vì vậy, để truyền tải bằng tiếng mẹ đẻ đã khó, viết bằng ngoại ngữ để người nước ngoài hiểu được là một thách thức không hề nhỏ”- TS. Minh lý giải và cho rằng các bài viết trước khi gửi cho tạp chí, cần được một người nói tiếng bản ngữ đọc và biên tập trước.
TS. Huỳnh Văn Thông thì đề xuất giải pháp thiết lập và áp dụng nghiêm túc yêu cầu đánh giá hậu tuyển thường xuyên với các giảng viên đã được bổ nhiệm chức danh GS, PGS. Cụ thể đặt yêu cầu có ít nhất 1 công bố ISI hoặc Scopus có học hàm này trong một chu kỳ khoảng 3 năm.
“Giải pháp này thúc đẩy các giảng viên có học hàm GS, PGS phải bước ra khỏi 'vùng an toàn' để thực hiện chức phận tương xứng với học hàm và đặt việc nghiên cứu, công bố quốc tế vào phạm trù danh dự học thuật của học hàm” – TS. Thông nói.