Hiện nay, hàng chục thử nghiệm lâm sàng đang được tiến hành để tìm cách hạn chế các tác động và biến chứng của sinh non như suy giảm thị lực, phổi kém phát triển, chảy máu não... Ngoài ra, còn các nghiên cứu về những can thiệp xã hội, giúp các gia đình chăm sóc trẻ sinh non tốt hơn sau khi rời bệnh viện.

Khó thở

Nhưng hiện nay các nhà khoa học chỉ mới bắt đầu theo dõi được những người sinh non đến tuổi trưởng thành và sau đó là trung niên, khi các vấn đề sức khỏe có thể vẫn chưa phát lộ. "Tôi muốn các nhà khoa học tập trung vào các tác động lâu dài như cách họ đã tập trung vào các tác động ngắn hạn," Tala Alsadik, học sinh trung học 16 tuổi ở Jeddah, Ả Rập Saudi, nói.

Khi mẹ Alsadik mang thai 25 tuần và vỡ nước ối, các bác sĩ thậm chí đã trao giấy tờ khai tử cho gia đình trước khi họ đồng ý thực hiện mổ lấy thai. Khi còn là một đứa trẻ sơ sinh, Alsadik đã trải qua ba tháng chăm sóc đặc biệt dành cho trẻ sơ sinh (NICU), cô bị suy thận, nhiễm trùng huyết và suy hô hấp.

Những biến chứng không dừng ở đó, hậu quả của việc sinh non hiển hiện mỗi khi cô nói, giọng cô nhỏ nhưng chói vì máy thở đã gây tổn hại dây thanh quản. Khi cô 15 tuổi, rốn của cô bất ngờ bị rỉ dịch màu vàng và phải phẫu thuật. Nguyên nhân là do vật liệu còn sót lại từ khi cô nhận chất dinh dưỡng qua ống rốn.

Các bác sĩ của cô không hề đề phòng để tầm soát những tình trạng này. Trên thực tế, các bác sĩ không thường hỏi liệu một bệnh nhân vị thành niên hay người trưởng thành có phải là trẻ sinh non trong quá khứ hay không.

Phương pháp điều trị cho trẻ sinh non đã được cải thiện trong những thập kỷ gần đây, nhưng tỷ lệ sống sót thay đổi theo tháng sinh và khả năng điều trị của từng quốc gia.

Charlotte Bolton là một bác sĩ hô hấp tại Đại học Nottingham, Vương quốc Anh, nơi cô chuyên về bệnh nhân mắc bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính (COPD). Những người đến với phòng khám của cô thường trên 40 tuổi và là người hút thuốc. Nhưng vào khoảng năm 2008, cô bắt đầu nhận thấy một nhóm bệnh nhân mới bị khó thở và có các triệu chứng giống như COPD: những người 20 tuổi không hút thuốc.

Hỏi kỹ hơn, Bolton phát hiện, nhiều người trong số này sinh non trước 32 tuần. Để hiểu rõ hơn, cô đã liên lạc với Marlow, người cũng quan tâm đến vấn đề chức năng phổi khi những trẻ sinh non tham gia EPICure đang lớn lên và già đi. Thay đổi chức năng phổi là một yếu tố dự báo chính của bệnh tim mạch, nguyên nhân hàng đầu gây tử vong trên toàn thế giới. Các bác sĩ lâm sàng đã biết rằng khi sinh non, phổi thường không phát triển đủ kích cỡ. Dùng máy thở, nồng độ oxy cao, viêm và nhiễm trùng ở trẻ sinh non có thể gây tổn thương thêm ở phổi, dẫn đến chức năng phổi thấp và các vấn đề hô hấp dài hạn, như Bolton, Marlow và các đồng nghiệp của họ cho thấy trong một nghiên cứu về trẻ 11 tuổi.

Nghiên cứu của VICS củng cố các lo ngại về tim mạch: các nhà nghiên cứu đã quan sát thấy luồng khí thở - yếu tố dự báo bệnh tim mạch cũng như huyết áp cao ở tuổi trưởng thành - giảm dần ở trẻ sinh non khi đến 8 tuổi, trở nên tệ hơn nữa khi trẻ lên 10. "Chúng tôi vẫn chưa tìm thấy lý do," Cheong nói. "Đây là một lĩnh vực nghiên cứu hoàn toàn mới."

Trong khí đó, tại Sainte-Justine, các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng những trẻ tuổi sinh ra khi chưa được 28 tuần có nguy cơ bị huyết áp cao gấp ba lần so với thông thường. Các nhà nghiên cứu cho biết, họ sẽ thử dùng thuốc, cũng như thử can thiệp lối sống, để kiểm soát tình trạng này.

Các nhà khoa học tỏ ra bi quan khi họ bắt đầu một nghiên cứu thí điểm về chương trình tập thể dục kéo dài 14 tuần. Họ nghĩ rằng sẽ không thể thay đổi các yếu tố nguy cơ tim mạch. Kết quả sơ bộ cho thấy họ đã sai; những người sinh non đang cải thiện sức khỏe khi có tập thể dục.

Girard-Bock cho biết dữ liệu này thúc đẩy cô ăn uống lành mạnh và duy trì vận động. "Tôi đã được trao cơ hội sống sót," cô nói. "Tôi cần phải cẩn thận."

Những can thiệp

Đối với trẻ sinh non, những tuần và tháng đầu đời vẫn là trắc trở nhất. Hiện nay hàng chục thử nghiệm lâm sàng đang được tiến hành đối với sinh non và các biến chứng liên quan.

Một y tá sử dụng điện não đồ (EEG) để tiến hành kiểm tra sự phát triển não bộ ở em bé chào đời ở tuần thứ 25.

Chẳng hạn, trong một thử nghiệm lâm sàng giai đoạn được báo cáo vào năm 2016, các nhà nghiên cứu truyền cho các bé sinh non một yếu tố tăng trưởng được gọi là IGF-1 - mà thai nhi thường nhận được từ mẹ trong 6 tháng đầu của thai kỳ - nhằm bảo vệ phổi của trẻ sinh non. Kết quả cho thấy tỷ lệ tình trạng phổi mãn tính thường gặp ở trẻ sinh non giảm còn một nửa, và trẻ ít có khả năng bị xuất huyết não nghiêm trọng trong những tháng đầu tiên.

Một mối quan tâm khác là suy giảm thị lực. Sự phát triển võng mạc dừng lại sớm khi trẻ sinh non bắt đầu thở oxy. Sau đó, võng mạc phát triển trở lại, nhưng trẻ sinh non có thể tạo ra quá nhiều yếu tố tăng trưởng VEGF, gây ra sự tăng sinh quá mức của các mạch máu trong mắt, một loại bệnh lý võng mạc. Trong một thử nghiệm được công bố vào năm 2018, các nhà nghiên cứu đã điều trị thành công 80% các trường hợp bệnh võng mạc này bằng một loại thuốc chặn VEGF có tên là ranibizumab, và vào năm 2019, thuốc đã được chấp thuận tại Liên minh Châu Âu để sử dụng cho trẻ sinh non.

Nhưng chương trình điều trị hứa hẹn nhất, theo một số bác sĩ sơ sinh, là những can thiệp xã hội để giúp đỡ các gia đình sau khi họ rời bệnh viện. Đối với các bậc cha mẹ, rất khó để nuôi trẻ sinh non sau khi đã phụ thuộc vào đội ngũ chuyên gia trong nhiều tháng. Sự thiếu tự tin này liên quan đến trầm cảm ở cha mẹ và gây khó khăn đối với phát triển xã hội ở những đứa trẻ.

Tại Bệnh viện Phụ nữ và Trẻ sơ sinh Rhode Island ở Providence, Betty Vohr là giám đốc Chương trình Theo dõi Sơ sinh. Ở đó, các gia đình được ở trong các phòng riêng, thay vì ở chung trong phòng lớn như ở nhiều đơn vị chăm sóc đặc biệt dành cho trẻ sơ sinh (NICU). Khi họ sẵn sàng rời đi, một chương trình có tên Transition Home Plus sẽ giúp họ chuẩn bị và hỗ trợ thường xuyên qua đường dây trợ giúp 24/7 và gặp trực tiếp trong vài ngày đầu tại nhà. Đối với các bà mẹ bị trầm cảm sau sinh, Bệnh viện cung cấp chăm sóc từ các nhà tâm lý học và y tá chuyên khoa.

Các can thiệp này rất có ý nghĩa, Vohr nói. Các phòng đơn dành cho gia đình dẫn đến sản lượng sữa của các bà mẹ cao hơn 30% sau bốn tuần so với các gia đình ở không gian chung. Khi được 2 tuổi, trẻ em từ các phòng đơn đạt điểm cao hơn trong các bài kiểm tra nhận thức và ngôn ngữ. Sau khi Transition Home Plus bắt đầu, trẻ sơ sinh được xuất viện từ NICU có chi phí chăm sóc sức khỏe thấp hơn và ít lần đến bệnh viện hơn - những vấn đề rất đáng quan tâm đối với trẻ sinh non. Các NICU khác cũng đang phát triển các chương trình tương tự, Vohr nói.

Với các loại can thiệp mới này và dữ liệu dài hạn đang tiếp tục đổ ra từ các nghiên cứu, các bác sĩ có thể đưa ra dự đoán tốt hơn bao giờ hết về các hệ quả của sinh non. Mặc dù phải đối mặt với các biến chứng, nhiều trẻ sinh non vẫn có cơ hội phát triển.

Alsadik là một câu chuyện thành công. Mặc dù bắt đầu cuộc sống một cách khó khăn, cô học tập rất tốt và có kế hoạch trở thành một bác sĩ sơ sinh. "Tôi cũng muốn cải thiện cuộc sống lâu dài cho những trẻ sinh non khác," cô nói.

Nguồn:

https://www.nature.com/articles/d41586-020-01517-z
https://linkinghub.elsevier.com/retrieve/pii/S0022347616301767
https://www.jpeds.com/article/S0022-3476(18)30592-4/fulltext