Trong hai lần tổ chức trước (năm 2016 và 2019), Giải thưởng đã được trao cho sáu công trình của 14 nhà khoa học có các thành tựu xuất sắc nhất về khoa học tự nhiên và công nghệ. Các công trình này là kết quả của một quá trình nghiên cứu dài lâu, thể hiện tính khoa học ở các công trình công bố cũng như bằng độc quyền sáng chế hoặc quyết định của Chính phủ cho phép đưa vào thực tiễn và ứng dụng rộng rãi, phục vụ trực tiếp đời sống xã hội cũng như trong lĩnh vực an ninh quốc phòng.
Các công trình đã được trao giải bao gồm:
1. “Ứng dụng công nghệ tiên tiến sản xuấtvaccinephòng bệnh cho người” của nhóm tác giả cố GS.TSKH. Hoàng Thủy Nguyên và cố GS.TSKH. Đặng Đức Trạch (Viện Vệ Sinh Dịch tễ Trung ương, Bộ Y Tế).
Đây là công trình đã được ứng dụng trong các sản phẩm vaccine dùng trong chương trình tiêm chủng mở rộng quốc gia. Nhờ đó, hàng triệu trẻ em Việt Nam có thể tránh được những di chứng, tật nguyền nặng nề và phòng được dịch bệnh nguy hiểm do virus gây nên.
2. “Công nghệ sản xuất tinh quặng sắt, thép và vật liệu xây dựng không nung từ bùn đỏ” của nhóm tác giả TS. Vũ Đức Lợi (Viện Hóa học, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam) và TS. Nguyễn Văn Tuấn (Công ty Cổ phần Thương mại Thái Hưng).
Công trình có ý ứng dụng thực tiễn phục vụ môi trường và đời sống của nhân dân vùng Tây Nguyên cũng như có ý nghĩa lớn về an ninh quốc phòng. Kết quả nghiên cứu của công trình đã cơ bản giải quyết vấn đề xử lý bùn đỏ, mở ra hướng đi mới trong việc sản xuất các vật liệu xây dựng không nung.
3. “Nghiên cứu xây dựng quy trình công nghệ sản xuất vaccine cúm gia cầm subtype A/H5N1 ở Việt Nam” của nhóm tác giả: GS.TS. Lê Trần Bình, PGS.TS. Đinh Duy Kháng (Viện Công nghệ sinh học, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam), TS. Trần Xuân Hạnh (Công ty CP thuốc thú y Trung ương, Bộ Nông nghiệp Phát triển nông thôn).
Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu thành công vaccine cúm gia cầm H5N1 do Viện Công nghệ sinh học thực hiện và đã áp dụng thành công vào sản xuất ở quy mô công nghiệp. Công ty NAVETCO là đơn vị được cấp phép sản xuất, lưu hành vào năm 2012. Từ đó đến nay, hàng trăm triệu liều vaccine cúm NAVET-VIFLUVAC đã được sản xuất, góp phần quan trọng trong việc phòng chống bệnh cúm gia cầm tại Việt Nam. Kết quả đạt được của công trình còn cho thấy gắn kết bền vững giữa các nhà quản lý – nhà khoa học và nhà doanh nghiệp, mang lại lợi ích kinh tế, xã hội và môi trường cho cộng đồng người nông dân.
4. "Nghiên cứu tổ hợp vật liệu đặc chủng phục vụ chế tạo bộ hỗ trợ chiến đấu cho người lính và lõi đạn xuyên động năng 85mm" của nhóm tác giả: PGS.TS. Đoàn Đình Phương (Viện Khoa học Vật liệu), TS. Nguyễn Văn Thao (Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển công nghệ cao), TS. Lê Văn Thụ (Cục trang bị và kho vận, Bộ Công an).
Công trình đã thành công trong việc nghiên cứu các hệ vật liệu tổ hợp mới và vật liệu nano, nhằm tạo ra các sản phẩm chống va đập, giáp chống đạn hấp thụ năng lượng hiệu quả, bền, nâng cao hạn sử dụng, giảm khối lượng trang bị và tăng cường tính cơ động trong tác chiến. Các sản phẩm này còn được phát triển khả năng ngụy trang, ngăn chặn và phát hiện kịp thời, bảo vệ người lính khỏi vũ khí hoá học, sinh học.
5. “Nghiên cứu và phát triển công nghệ xử lý chất thải nguy hại công nghiệp và y tế” của nhóm tác giả: PGS.TS. Trịnh Văn Tuyên, Nghiên cứu viên cao cấp - TS. Nguyễn Thế Đồng, kỹ sư chính Mai Trọng Chí (Viện Khoa học Công nghệ Năng lượng Môi trường).
Đây là công trình đã được thực hiện từ những năm 2000, mang tính khoa học và ứng dụng cao trong thời điểm đó, đảm bảo xử lý các chất nguy hại và tỷ lệ nội địa hóa cao, phù hợp với điều kiện đặc thù của Việt Nam: vừa xử lý được các chất thải nguy hại (chất thải rắn công nghiệp và nước thải y tế) đảm bảo an toàn cho môi trường sống của cộng đồng và sinh thái cũng như an ninh xã hội.
Từ năm 2003 đến nay, công trình đã được triển khai đưa vào ứng dụng thực tế và đạt hiệu suất xử lý cao tại hơn 50 cơ sở xử lý chất thải rắn nguy hại y tế, công nghiệp và hơn 25 cơ sở xử lý nước thải y tế trên tại các cơ sở, bệnh viện trong và ngoài nước.
6. “Nghiên cứu chọn tạo giống lúa phục vụ Đồng bằng sông Cửu Long” của nhóm GS.TS. Nguyễn Thị Lang (Viện nghiên cứu Nông nghiệp Công nghệ cao Đồng bằng sông Cửu Long).
Điểm nổi bật của công trình là đã chọn tạo thành công các giống lúa chịu mặn có nguồn gốc từ giống lúa trời, địa phương gọi là “lúa ma” ở vùng Đồng Tháp Mười để tạo nên một giống lúa mới mang ý nghĩa thực tiễn cao, đóng góp thiết thực vào sự phát triển sản xuất lúa gạo trong nước và nâng cao vị trí ngành sản xuất lúa gạo Việt Nam trên thế giới. |