Phụ nữ mang thai nhiễm Covid-19 có nguy cơ nhập viện và trở bệnh nặng hơn so với phụ nữ cùng tuổi không mang thai, và đến nay vẫn chưa có kết luận đồng nhất về việc họ có nên được tiêm vaccine hay không.

Yalda Afshar đang mang thai khoảng hai tháng khi các ca nhiễm Covid-19 bắt đầu xuất hiện ở Mỹ vào tháng Hai năm ngoái. Là một bác sĩ sản khoa phụ trách các trường hợp mang thai có nguy cơ nhiễm bệnh cao tại Đại học California, Los Angeles, Afshar biết rằng virus đường hô hấp đặc biệt nguy hiểm đối với phụ nữ mang thai. Có rất ít dữ liệu về ảnh hưởng của virus SARS-CoV-2 lên nhóm này, và khi số ca bệnh tăng lên, cô cảm thấy thiếu thông tin để tư vấn cho bệnh nhân cũng như để bảo vệ chính mình và em bé.

Afshar đã thành lập một trong những đơn vị đầu tiên ở Mỹ để theo dõi những phụ nữ có kết quả xét nghiệm dương tính với Covid trong khi mang thai, làm việc với các đồng nghiệp trên khắp đất nước để tuyển dụng và theo dõi những người tham gia. Hơn một chục dự án tương tự đã được khởi động trong suốt năm 2020.

Hiện nay, sau hơn một năm xảy ra đại dịch, nghiên cứu từ các nhóm trên khắp thế giới đã chỉ ra rằng phụ nữ mang thai nhiễm Covid-19 có nguy cơ nhập viện và mắc bệnh nặng cao hơn so với phụ nữ cùng tuổi không mang thai.

Một phụ nữ mang thai tham dự một lễ kỷ niệm ở Caracas, Venezuela. Dữ liệu cho thấy phụ nữ mang thai phải đối mặt với nguy cơ nhiễm SARS-CoV-2 ngày càng tăng.

Rủi ro trước khi sinh

Không có gì ngạc nhiên khi virus đường hô hấp là mối đe dọa đối với phụ nữ mang thai, vì phổi của họ vốn đã phải hoạt động nhiều hơn bình thường. Khi tử cung phát triển, nó sẽ đẩy lên cơ hoành, làm giảm dung tích phổi và gây ảnh hưởng đến nguồn cung cấp oxy được phân chia giữa mẹ và thai nhi. Trên hết, thai kỳ làm suy giảm hệ miễn dịch, khiến phụ nữ mang thai dễ bị biến chứng do viêm nhiễm. Ví dụ như bệnh cúm, phụ nữ mang thai mắc bệnh có nguy cơ nhập viện cao hơn so với phụ nữ không mang thai. Phụ nữ mang thai mắc cúm H1N1 trong đại dịch 2009-10 cũng có nguy cơ sinh non và thai chết lưu cao hơn.

Vì vậy, các bác sĩ sản khoa trên toàn thế giới đã theo dõi và cảnh báo vào đầu năm ngoái khi số ca nhiễm trùng SARS-CoV-2 gia tăng trên toàn cầu về việc virus này sẽ ảnh hưởng như thế nào mẹ và thai nhi.

Dữ liệu sớm nhất từ ​​Trung Quốc chỉ ra rằng phụ nữ mang thai không bị Covid nặng hơn so với phụ nữ không mang thai ở cùng độ tuổi. Nhưng nhiều bác sĩ nghi ngờ dữ liệu này. Andrea Edlow, bác sĩ sản khoa tại Trung tâm Sinh sản Vincent tại Bệnh viện Đa khoa Massachusetts ở Boston, cho biết: “Kết luận này không nhận được sự đồng thuận từ hầu hết các bác sĩ y học cho bà mẹ và thai nhi". Bên cạnh đó, cô nói, các bác sĩ đều trực tiếp nhìn thấy dấu hiệu Covid nặng ở bệnh nhân của họ: "Phụ nữ mang thai trở bệnh nặng hơn những phụ nữ khác".

Một loạt các báo cáo từ khắp nơi trên thế giới xuất hiện sau đó. Một nghiên cứu phân tích bao gồm dữ liệu từ hơn 11.400 phụ nữ nhiễm hoặc có triệu chứng Covid-19, được công bố vào ngày 4/9/2020, chỉ ra rằng phụ nữ mang thai là nhóm có nguy cơ cao. Tỷ lệ phụ nữ mang thai nhiễm Covid-19 phải vào chăm sóc đặc biệt (ICU) cao hơn 62% so với phụ nữ không mang thai trong độ tuổi sinh sản, và tỷ lệ cần thông khí xâm lấn cao hơn 88%. Một nghiên cứu của Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) có kết quả đồng nhất với những phát hiện này - nghiên cứu CDC bao gồm hơn 400.000 phụ nữ dương tính với Covid-19, trong đó 23.434 phụ nữ đang mang thai, và nhận thấy tỷ lệ nhập viện ICU và thông khí xâm lấn tương tự như nghiên cứu với dữ liệu của 11.400 phụ nữ mang thai.

Phụ nữ mang thai nhiễm Covid-19 cũng có tỷ lệ sinh non cao gấp ba lần những phụ nữ mang thai không mắc bệnh, theo Shakila Thangaratinam, nhà nghiên cứu sức khỏe bà mẹ và chu sinh tại Đại học Birmingham, Vương quốc Anh, người dẫn đầu nghiên cứu với dữ liệu từ 11.400 phụ nữ.

Nhiều nghiên cứu đang tập trung vào các yếu tố nguy cơ khác làm trầm trọng thêm Covid-19 trong thai kỳ, bao gồm béo phì, huyết áp cao và tiểu đường thai kỳ. Tuy nhiên, cần có thêm dữ liệu để định lượng phần đóng góp của mỗi yếu tố, Thangaratinam nói.

Nguy cơ lây nhiễm từ mẹ sang em bé

Nếu người mẹ bị nhiễm COVID-19, con của họ có bị ảnh hưởng gì không? Sinh non có thể dẫn đến các vấn đề sức khỏe trong cuộc sống sau này. Nhưng hầu hết các ca sinh non ở phụ nữ có Covid-19 xảy ra trong ba tháng cuối của thai kỳ, khi thai nhi có cơ hội để phát triển khỏe mạnh.

Đáng mừng rằng Covid-19 cho đến nay không liên quan đến sự gia tăng rõ ràng tỷ lệ thai chết lưu hoặc làm chậm phát triển thai nhi. “Chúng ta có thể tương đối yên tâm, vì thai chết lưu hoặc hạn chế tăng trưởng [do Covid] khó có khả năng xảy ra,” Christoph Lees, bác sĩ sản khoa tại Đại học Imperial London, cho biết.

Một ẩn số lớn trong thời kỳ đầu của đại dịch là liệu SARS-CoV-2 có thể truyền từ mẹ sang con hay không. Các nghiên cứu do nhóm của Andrea Edlow, bác sĩ Bệnh viện Đa khoa Massachusetts, công bố năm ngoái cho thấy rằng sự ‘truyền dọc’ này hiếm khi xảy ra. Trong 62 phụ nữ mang thai có kết quả xét nghiệm dương tính với SARS-CoV-2, nhóm của Edlow không tìm thấy bằng chứng nào về virus trong máu hoặc dây rốn, và không ai trong số 48 trẻ sơ sinh được lấy mẫu xét nghiệm dương tính với virus.

Nhóm của Afshar cũng phát hiện, những đứa trẻ được sinh ra từ những bà mẹ bị nhiễm Covid thường vẫn có sức khỏe tốt. Trong một nghiên cứu so sánh 179 trẻ sinh ra từ những phụ nữ có kết quả xét nghiệm dương tính với SARS-CoV-2 với 84 trẻ sinh ra từ các bà mẹ có kết quả xét nghiệm âm tính, hầu hết trẻ sinh ra đều khỏe mạnh khi sinh và trong 6–8 tuần sau đó.

Nhiễm virus nặng ở các bà mẹ được biết liên quan đến việc gia tăng nguy cơ mắc bệnh trầm cảm và rối loạn phổ tự kỷ ở con cái. Đến nay chưa có bằng chứng cho thấy nhiễm SARS-CoV-2 ở người mẹ có thể ảnh hưởng đến con của họ theo cách này, nhưng các nhà khoa học có thể phải mất nhiều năm mới có thể tìm ra các mối liên kết như vậy. Một số nhà nghiên cứu đang theo dõi nhóm bệnh nhân của họ xem có bất kỳ sự chậm phát triển thần kinh nào không, nhóm của Afshar sẽ theo dõi trẻ sơ sinh trong năm đầu tiên sau khi sinh.

Một phụ nữ mang thai đang được tiêm phòng ở Pennsylvania. Đến nay các cơ quan y tế của các chính phủ đã đưa ra những lời khuyên khác nhau về việc tiêm chủng trong thai kỳ.

Thiếu dữ liệu vaccine

Tất cả những yếu tố nói trên thuyết phục hầu hết các bác sĩ rằng phụ nữ mang thai phải được ưu tiên tiêm vaccine Covid-19. Nhưng vì các thử nghiệm vaccine ban đầu đều loại trừ phụ nữ mang thai, nên vẫn có những câu hỏi chưa được giải đáp về tính an toàn của vaccine đối với nhóm này.

Các cơ quan quản lý khác nhau đưa ra có những khuyến nghị khác nhau. Vào tháng 1/2021, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) khuyến cáo rằng vaccine RNA thông tin do Moderna và Pfizer / BioNTech sản xuất chỉ cung cấp cho phụ nữ mang thai có nguy cơ cao nhất - những người làm việc ở tuyến đầu hoặc có bệnh nền - và chỉ sau khi tham khảo ý kiến của họ bác sĩ. Sau đó, WHO đã tiếp tục làm rõ thêm rằng vaccine không gây ra rủi ro cụ thể nào được biết đến trong thai kỳ. Người phát ngôn của WHO nói với trang tin Nature rằng, do thiếu dữ liệu, cơ quan này “không thể đưa ra khuyến nghị rộng rãi về việc tiêm chủng cho phụ nữ mang thai”.

Cả CDC và Ủy ban hỗn hợp về chủng ngừa và tiêm chủng của Vương quốc Anh đều khuyến cáo phụ nữ mang thai có nguy cơ mắc bệnh cao - những người có bệnh nền hoặc nhân viên tuyến đầu - nên tham vấn với bác sĩ xem có nên tiêm vaccine hay không.

Chính phủ Thụy Sĩ ban đầu không ưu tiên phụ nữ mang thai khi việc triển khai vaccine, do thiếu dữ liệu; nhưng hiện nay, Văn phòng Y tế Công cộng Liên bang Thụy Sĩ hiện đề nghị rằng phụ nữ mang thai mắc một số bệnh mãn tính nên cân nhắc việc chủng ngừa.

Tại Mỹ, Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm (FDA) và CDC đều đang theo dõi ảnh hưởng của việc tiêm chủng ở phụ nữ mang thai. Cố vấn y tế chính Anthony Fauci cho biết vào tháng Hai rằng 20.000 phụ nữ đã được tiêm vaccine Pfizer / BioNTech hoặc Moderna, và nhận thấy "không có dấu hiệu nguy hiểm". Và bây giờ, gần một năm sau khi giai đoạn I thử nghiệm vaccine Covid-19 bắt đầu trên người, Pfizer đã bắt đầu thử nghiệm trên phụ nữ mang thai.

David Baud, một bác sĩ sản khoa tại Đại học Lausanne ở Thụy Sĩ, người đang nghiên cứu một nhóm 1.700 phụ nữ mang thai từ khắp nơi trên thế giới, cho rằng nguy cơ căn bệnh này gây ra cho những người mang thai cao hơn rủi ro từ việc tiêm vaccine, và rằng đặc tính sinh học của vaccine mRNA không gây ra mối đe dọa cụ thể nào cho họ. “Rất rất rất ít khả năng vaccine này sẽ gây ra bất kỳ vấn đề nào cho bệnh nhân đang mang thai hoặc thai nhi”, Baud nói.

Các nhà nghiên cứu và các nhóm vận động muốn sử dụng ví dụ Covid-19 để thay đổi tiêu chuẩn của các thử nghiệm lâm sàng trong tương lai, yêu cầu các thử nghiệm này bao gồm cả phụ nữ mang thai ngay từ đầu.

Nguồn: