Ít ai ngờ "Mấy vấn đề văn học sử Việt Nam" gần như là chuyên luận văn chương tầm cỡ cuối cùng của Trương Tửu. Đáng nói hơn, điều mà chính Trương Tửu cũng không lường được là cuốn sách này lại bị phê phán ở điểm ông nhọc công chăm chút nhất: viết lịch sử văn học Việt Nam theo nhãn quan và phương pháp Mác-xít.

Cuốn Mấy vấn đề văn học sử Việt Nam của Trương Tửu được in lần đầu tại Nhà xuất bản Xây dựng (Hà Nội) năm 1958, và tái bản gần đây. Thời điểm cuốn sách ra đời chứa nhiều sự kiện quan trọng không chỉ của Trương Tửu, mà còn của xã hội, văn hóa, đời sống trí thức Việt Nam lúc bấy giờ.

ffdf
GS Trương Tửu (1913-1999).

Sau nhiều năm dạy học tại các lớp văn hóa Liên khu 4, năm 1954 khi hòa bình lập lại, Trương Tửu về Hà Nội, được bổ nhiệm Giáo sư tại trường Đại học Tổng hợp và Đại học Sư phạm Hà Nội. Ở ngôi trường Sư phạm có nhiều đồng nghiệp danh tiếng này, Trương Tửu chuyên giảng dạy lí luận văn học và lịch sử văn học Việt Nam.

Năm 1955, ông viết hai chuyên luận Chỉnh huấn là gì?Văn hóa nô dịch của đế quốc Mỹ và phe lũ. Năm sau, 1956, Trương Tửu có mặt trong phái đoàn Giáo dục Đại học Việt Nam tham quan nghiệp vụ tại Trung Quốc. Cùng năm, Trương Tửu cho in công trình nhiều tâm huyết Truyện Kiều và thời đại Nguyễn Du, một nỗ lực nghiên cứu sâu thêm, ngõ hầu vượt qua “những nhận định sai lầm cơ bản” như chính Trương Tửu tự cảm nhận trong hai chuyên khảo trước đó của mình là Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942), Văn chương Truyện Kiều (1945).

Sang năm 1957, Trương Tửu tham gia Đại hội thành lập và là Hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam. Cuối năm đó, ông hoàn thành Mấy vấn đề văn học sử Việt Nam.

Từ 1959 trở đi, ông rời xa hẳn công việc nghiên cứu, phê bình văn chương, chuyên chú tìm hiểu Đông y và hành nghề châm cứu. Ít ai ngờ Mấy vấn đề văn học sử Việt Nam gần như là chuyên luận văn chương tầm cỡ cuối cùng của Trương Tửu khi ông đang có môi trường giảng dạy lí tưởng và vốn tri thức sâu dày nhiều năm tích lũy được. Đáng nói hơn, điều mà chính Trương Tửu cũng không lường được là cuốn sách này lại bị phê phán ở điểm ông nhọc công chăm chút nhất: viết lịch sử văn học Việt Nam theo nhãn quan và phương pháp Mác-xít. Một trong những phê phán đó nhằm vào việc cuốn sách cho rằng văn học cận đại Việt Nam căn bản là “tư tưởng tư sản”(1).

Thực ra, trước Mấy vấn đề văn học sử Việt Nam, Trương Tửu từng “tập dượt” phương pháp phê bình Mác-xít trong Kinh Thi Việt Nam (1940), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (1943). Vào thập niên 1950, nghĩa là văn hóa văn nghệ và đời sống xã hội Việt Nam đã thực sự thích nghi với đường lối, lập trường Mác-Lênin, Trương Tửu, cũng như nhiều văn nghệ sĩ khác, phải chứng thực một cách rõ ràng những gì mình đã tiếp thu được từ chủ nghĩa Mác. Mặc dù nhận thấy khó khăn lớn là “các nhà văn học sử của chúng ta mới còn đang ở thời kỳ tập vận dụng lập trường và phương pháp Mác-Lênin vào sự nghiên cứu văn học” nhưng Trương Tửu trước sau vẫn bám sát tư tưởng, phương pháp Mác-xít trong từng lập luận, nhận định, diễn giải.

Mấy vấn đề văn học văn học sử Việt Nam được tái bản gần đây, sau hơn 60 năm.

Những quan niệm then chốt như “văn học là một bộ phận thượng tầng kiến trúc của xã hội”; “thượng tầng kiến trúc tác động trở lại hạ tầng cơ sở”; “trong các xã hội có giai cấp, văn học phản ánh toàn thể cuộc sinh hoạt nên có tính chất đối kháng trong nội bộ”; “văn học Việt Nam sau 1945 thuộc vào phạm trù ý thức hệ xã hội chủ nghĩa của giai cấp vô sản”; hay “thời hiện đại là thời của cách mạng xã hội chủ nghĩa thế giới bắt đầu thắng lợi trong điều kiện đế quốc chủ nghĩa-giai đoạn chót của chế độ tư bản-bắt đầu tan rã và ngày càng tan rã”,…, rõ ràng, cho thấy Trương Tửu nồng nhiệt và tin cậy cao độ một số nhận định trong hệ lí luận chủ nghĩa Mác về kinh tế xã hội lẫn văn nghệ.

Ông cũng trích dẫn theo kiểu “nói có sách” trước tác kinh viện của Mác - Ăngghen, Lênin, Mao Trạch Đông, G. Plekhanov, tham khảo Jean Fréville, G. Lukács, Bielinski,… như một cảm hứng lớn và cấp thiết. Từ nguồn lí luận đó, Trương Tửu cố gắng xây dựng mô hình tiếp cận văn học sử Việt Nam trên cơ sở phân tích điều kiện kinh tế xã hội, ý thức hệ giai cấp, thể chế chính trị, tác động của cách mạng hay đường lối lãnh đạo văn nghệ. Bởi thế, trong cái nhìn của Trương Tửu, đột biến lớn của văn học Việt Nam là khi cách mạng tháng Tám thành công “mở đầu một thời đại hoàn toàn mới trong lịch sử văn học dân tộc” trên nhiều phương diện: đời sống văn học, lý tưởng nghệ thuật, khiếu thẩm mỹ, sáng tác và phê bình, chủ đề, nhân vật ngữ ngôn,… Ở giai đoạn văn học 1945-1954, Trương Tửu không nén nổi niềm tự hào rằng “văn học Việt Nam tự gắn chặt mình vào cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa thế giới của giai cấp vô sản”.

Có thể nói, với cá nhân Trương Tửu, chưa bao giờ ông trở nên bài bản vận dụng phương pháp Mác-xít trong nghiên cứu như ở Mấy đề vấn đề văn học sử Việt Nam; cũng hiếm khi ông có nhiều cảm xúc và mỹ từ dành cho văn học sau 1945 như ở cuốn sách đẩy ông vào bước ngoặt ấy. Nhưng với độc giả hôm nay, dù thừa nhận sự chân thành, nồng nhiệt hay nỗ lực khoa học hóa văn học sử bằng nhãn quan Mác-xít trong Mấy đề vấn đề văn học sử Việt Nam, chúng ta cũng thấy những phẩm chất đó là chưa đủ để khỏa lấp sự cứng nhắc trong vận dụng lí thuyết, sự lúng túng nhất định trong cách phân chia và lí giải các đặc điểm của mỗi thời kì văn học, và đáng nói hơn, mức độ thuyết phục khi muốn quy tất cả diễn biến sinh động của văn chương trong khung ý thức hệ chính trị, đấu tranh giai cấp.

Tuy thế, theo tôi, nhờ những gì chưa hoàn hảo của thao tác áp dụng phương pháp Mác-xít mà Trương Tửu lại bộc lộ được một số nhìn nhận, đánh giá xác đáng, có ý nghĩa gợi mở cho các nghiên cứu văn học sử về sau và vẫn còn nguyên giá trị đến ngày hôm nay. Hơn nữa, cũng nhờ sự “chưa tới” trong phương pháp Mác-xít ở Mấy đề vấn đề văn học sử Việt Nam mà chúng ta có thể vỡ lẽ những hạn chế chung của thời đại, của phương pháp nghiên cứu từng là chủ đạo đó để, như từ giai đoạn Đổi mới (1986) đến nay, tìm tòi, vận dụng các phương pháp khác mới mẻ và hiệu quả.

Sự xác đáng đáng kể đầu tiên trong Mấy đề vấn đề văn học sử Việt Nam là việc chỉ ra “tính loại biệt của văn học”. Trương Tửu dường như được trở lại tâm thế nhà phê bình khi viết những trang thật bay bổng, những dẫn chứng thật hào hứng về “trí tưởng tượng thật mãnh liệt của nhà văn”, “thế giới hư ảo do trí tưởng tượng của nhà văn học sáng tạo ra”, về ngôn ngữ trong tay “một nhà văn thiên tài […] thật là huyền diệu”. Trương Tửu nhấn mạnh rằng nhà văn phản ánh hiện thực bằng “hình tượng”, “bằng cách hư cấu” nên nhiệm vụ của nhà phê bình và người làm văn học sử là “căn cứ vào những hình tượng văn học trong tác phẩm nhận định thật đúng chân tướng ý thức và cá tính độc đáo của từng nhà sáng tạo văn học”. Bởi hiểu vai trò của cá tính, ngôn ngữ, bút pháp trong sáng tạo văn chương nên Trương Tửu khuyến nghị người làm văn học sử cần tránh những tổng luận đại khái không bắt đúng “thần thái đặc biệt của mỗi nhà văn”. Đây là lí do khiến Trương Tửu mở rộng quan sát diễn biến văn học ở nhiều phương diện, có phương diện thuộc kinh tế-xã hội nhưng cũng có phương diện thuộc thái độ, tâm lí nhà văn, thuộc về công chúng văn chương. Nhìn chung, cách làm như vậy sẽ thu được nhiều dữ liệu và ngay cả các nghiên cứu văn học sử ở Việt Nam hiện nay vẫn thường xuất phát từ khảo sát bối cảnh văn hóa, xã hội.

Ở điểm khả thủ thứ hai, cuốn Mấy đề vấn đề văn học sử Việt Nam đã tạo được một sơ đồ phác thảo văn học sử tương đối dễ nắm bắt. Sơ đồ đó đưa ra hai vấn đề lớn: Thứ nhất, đời sống văn học (trong đó quan trọng là các thể loại và tác giả, tác phẩm văn học); thứ hai, các bộ phận hợp thành (văn học dân gian, “văn học Hán Việt”, văn học cổ điển, văn học cận đại và văn học hiện đại). Có thể xem đây là các chỉ dẫn có mức độ tham khảo nhất định. Chẳng hạn, về văn học cổ điển, Trương Tửu cho rằng không thể áp dụng máy móc khái niệm “chủ nghĩa cổ điển” phương Tây mà cần thấy “văn học cổ điển ở Việt Nam thành hình trong điều kiện xã hội phong kiến chưa có giai cấp tư sản. Những người sáng tạo ra văn học cổ điển, ở Việt Nam, không phải là những nhà trí thức đại diện cho giai cấp tư sản đang lớn lên mà lại là những tầng lớp nho sĩ quan liêu và nho sĩ bình dân tiến bộ”.

Mấy đề vấn đề văn học sử Việt Nam khép lại một chặng đường nhận thức và triển khai công việc khảo cứu, biên soạn lịch sử văn học dân tộc của giới nghiên cứu. Trước Trương Tửu thì Dương Quảng Hàm đã viết Quốc văn trích diễm (1925) và Việt Nam văn học sử yếu (1943), Nguyễn Đổng Chi viết Việt Nam cổ văn học sử (1942), Nghiêm Toản viết Việt Nam văn học sử trích yếu (1949), Nguyễn Tường Phượng và Bùi Hữu Sủng viết Văn học sử Việt Nam thế kỉ XIX (1952), nhóm Lê Quý Đôn viết Lược sử văn học Việt Nam (1957). Trương Tửu kế thừa nhưng cũng phản biện thẳng thắn sản phẩm của người đi trước và nhờ thế, cuốn sách của ông mang âm hưởng đối thoại xung quanh các điển phạm văn chương đã xác lập.

(1) Hồng Quảng, “Nội dung tư tưởng của văn học cận đại Việt Nam có phải căn bản là tư tưởng tư sản không?”. Văn học, số 17, tháng 11 năm 1958.