Nhóm tác giả ở Đại học Y Dược TPHCM đã ứng dụng công nghệ giải trình tự gene thế hệ mới, có thể giúp phát hiện sớm bệnh ung thư đại trực tràng, mang lại cơ hội sống, cũng như giảm gánh nặng chi phí điều trị cho bệnh nhân.
Ung thư đại trực tràng (UTĐTT) là một trong 5 loại ung thư phổ biến nhất ở nam giới. Tuy nhiên, đây lại là một trong số ít bệnh lý ác tính có tiên lượng khá tốt, nếu được phát hiện và điều trị sớm. Nếu UTĐTT được phát hiện ở giai đoạn sớm, điều trị đúng phương pháp, tỷ lệ khỏi bệnh có thể đạt từ 50 - 100%.
Một số phương pháp phát hiện sớm UTĐTT như nội soi đại trực tràng vẫn được xem là phương pháp chuẩn vàng với ưu điểm là độ chính xác cao và cho phép kết hợp tiến hành phẫu thuật loại bỏ khối u ngay khi phát hiện. Tuy nhiên, do giá thành cao và có tính xâm lấn nên mức tiếp cận kỹ thuật này còn hạn chế và khó triển khai rộng rãi. Các phương pháp phân tích kháng nguyên trong phân tuy không xâm lấn, nhưng độ đặc hiệu của kỹ thuật này thấp (6% - 56%) và kết quả chẩn đoán có khả năng sai lệch do nhiều bệnh lý khác như bướu thịt, trĩ, viêm ruột hoặc do chế độ ăn uống của bệnh nhân.
Vài năm gần đây, một số đơn vị tại Việt Nam đã bắt đầu nghiên cứu xây dựng qui trình sinh thiết lỏng phát hiện ctDNA (DNA ngoại bào mang đột biến ung thư) ở bệnh nhân ung thư, hầu hết thuộc giai đoạn muộn (III và IV). Nhưng hiện chưa ghi nhận đơn vị nào nghiên cứu qui trình phát hiện ctDNA trong giai đoạn sớm của ung thư. Do đó, nhóm tác giả ở Đại học Y Dược TPHCM đã tiến hành nghiên cứu “Xây dựng qui trình phát hiện ctDNA (circulatin tumor DNA) trong ung thư đại trực tràng giai đoạn sớm bằng công nghệ giải trình tự thế hệ mới”.
Sau khi nghiên cứu mẫu máu ở các bệnh nhân UTĐTT, người khỏe mạnh và ứng dụng công nghệ giải trình tự gene thế hệ hệ mới, nhóm đã tách chiết cfDNA từ mẫu huyết tương và đánh giá được sự khác biệt giữa nồng độ cfDNA ở bệnh nhân UTĐTT và người khoẻ mạnh. Nghiên cứu cho thấy, nồng độ cfDNA trung bình thu được từ nhóm bệnh là 0,78ng/μl, khoảng dao động từ 0,20-5,18ng/μl. Nhóm chứng (người khỏe mạnh) có nồng độ cfDNA trung bình là 0,46ng/μl, khoảng dao động từ 0,06-1,27ng/μl.
So sánh nồng độ cfDNA giữa nhóm bệnh và nhóm đối chứng, thì nồng độ cfDNA ở nhóm bệnh cao hơn nhóm chứng khoảng 1,7 lần. Xu hướng gia tăng hàm lượng cfDNA tổng số, phần lớn bắt nguồn từ việc gia tăng của hàm lượng ctDNA trong máu. Với bệnh nhân ở giai đoạn tiến triển xa của ung thư, hàm lượng ctDNA gia tăng đáng kể.
Qua đó, nhóm tác giả đã xây dựng quy trình sinh thiết lỏng phát hiện ctDNA trong máu ở bệnh nhân UTĐTT giai đoạn sớm. Theo quy trình, trước tiên, thu nhận mẫu huyết tương bệnh nhân. Sau đó, mẫu huyết tương sẽ được tách chiết để thu nhận các mảnh DNA tự do và sẽ được tiến hành giải trình tự gene để xác định được sự hiện diện của ctDNA trong mẫu huyết tương bệnh nhân. Độ nhạy và độ đặc hiệu của quy trình lần lượt đạt 84% và 91,7%.
Theo GS.TS.BS Trần Diệp Tuấn, Chủ nhiệm đề tài, đây là một xét nghiệm phát hiện ung thư giai đoạn sớm có độ chính xác cao, đơn giản, không xâm lấn, có thể được ứng dụng rộng rãi và thường qui trong sàng lọc sớm các loại ung thư nói chung và UTĐTT nói riêng.
Đề tài của nhóm tác giả đã được Sở KH&CN TPHCM nghiệm thu trong năm nay, là tiền đề mở rộng cho xét nghiệm để phát hiện sớm được các dạng ung thư khác ở người Việt Nam.