Mới đây, trong danh sách các cơ quan nghiên cứu thuộc cơ sở dữ liệu Publons, một tiêu chí mới đã được cập nhật là tổng số các nghiên cứu có trong Core Collection của ISI Web of Science (WOS), bao gồm các danh mục con: SCIE/SSCI/AHCI/ESCI cho tạp chí học thuật, CPCI cho kỷ yếu hội nghị, và chỉ mục BCI cho sách. Dựa trên thông tin này, tiềm năng khoa học của một số cơ quan nghiên cứu tại Việt Nam có thể được quan sát sơ qua như ở bảng dưới.
Cần lưu ý, số lượng công bố trong WOS Core Collection này được cộng dồn tất cả các công bố trong quá khứ của các nhà nghiên cứu hiện đang làm việc tại cơ quan được liệt kê, bất kể cơ quan trong bài báo là ở đâu. Bên cạnh đó, một số đặc tính của dữ liệu như độ trễ, mức độ khai báo thông tin của người dùng, cũng khiến con số có thể chưa đầy đủ, mà có tính "bảo thủ", tức là phản ánh thấp hơn thực tế. Chính vì thế, chúng ta nên quan sát con số này với tính chất dự báo tiềm năng khoa học của một cơ quan nghiên cứu, thông qua đại diện là con người -- các nhà nghiên cứu đang công tác tại đó.
Bảng 1. Tiềm năng khoa học của một số
cơ quan / trường đại học Việt Nam theo dữ liệu Web of Science/Publons
Trường đại học/Cơ
quan nghiên cứu Việt Nam
|
Nhà nghiên cứu
|
Số nghiên cứu
trong WOS Core Collection
|
Nhà bình duyệt
xuất sắc/báo cáo bình duyệt
|
Trường ĐH Tôn Đức
Thắng
|
229
|
4892
|
5/1664
|
Trường ĐH Phenikaa
|
32
|
642
|
2/425
|
Trường ĐH Duy Tân
|
39
|
623
|
1/1114
|
Trường ĐH Bách
Khoa Hà Nội
|
80
|
422
|
1/312
|
ĐH Quốc gia Hà Nội
|
59
|
318
|
1/221
|
ĐH Quốc gia TP. Hồ
Chí Minh
|
52
|
291
|
1/196
|
Viện Hàn lâm KH&CN
Việt Nam (VAST)
|
27
|
267
|
0/50
|
Viện Vật lý, VAST
|
8
|
265
|
0/0
|
Trường ĐH Công nghệ
TPHCM-HUTECH
|
6
|
210
|
2/342
|
Viện Khoa học Máy
tính (INCOS), ĐH Tôn Đức Thắng
|
18
|
210
|
0/14
|
Học viện Công nghệ
Bưu chính Viễn thông
|
13
|
175
|
0/4
|
Trường ĐH Nguyễn Tất
Thành
|
8
|
164
|
1/204
|
Trường ĐH Bách
Khoa, Đại học Quốc Gia TPHCM
|
71
|
154
|
0/64
|
ĐH Huế
|
26
|
149
|
0/22
|
Trường ĐH Khoa học
tự nhiên, ĐH Quốc gia Hà Nội
|
40
|
140
|
0/4
|
Viện Toán học,
VAST
|
5
|
104
|
0/9
|
Trường ĐH Bách khoa,
ĐH Đà Nẵng
|
12
|
101
|
0/3
|
Trường ĐH Sư phạm
Hà Nội
|
21
|
98
|
0/5
|
Trường ĐH mở TPHCM
|
15
|
92
|
0/35
|
Trường ĐH Dược Hà
Nội
|
8
|
89
|
0/0
|
ĐH Cần Thơ
|
38
|
81
|
0/45
|
(Dữ liệu truy cập ngày: 15:21 PM, 05-11-2019, từ đường dẫn: https://publons.com/institution/?country=99&order_by=num_cc_publications)
Điểm đáng chú ý đầu tiên là nhóm các cơ quan có số lượng nghiên cứu nhiều nhất, về cơ bản, đều là các trường đại học hoạt động dưới cơ chế tự chủ, và một tỷ lệ không nhỏ là các trường đại học tư thục. Không chỉ vậy, các cơ quan này cũng đóng góp nhiều báo cáo bình duyệt được xác nhận nhất.
Bên cạnh đó, cũng có nhiều viện nghiên cứu "con" nhưng có số lượng công bố không thua kém gì cơ quan "mẹ", ví dụ như Viện Vật lý và Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VAST). Tuy nhiên, con số này có thể thay đổi khi các cơ quan được cập nhật dữ liệu đầy đủ hơn.
So sánh với một bảng xếp hạng khác được công bố gần đây là Nature Index, có thể thấy, hầu hết các cơ quan nằm trong top 10 cơ sở nghiên cứu ở lĩnh vực khoa học tự nhiên, hoá học, khoa học sự sống, khoa học trái đất và môi trường tại Việt Nam của bảng xếp hạng này cũng đều được cơ sở Publons ghi nhận ở các vị trí tiên phong như Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VAST), trường ĐH Duy Tân, trường ĐH Bách khoa Hà Nội, ĐH Quốc gia TPHCM, trường ĐH Tôn Đức Thắng, trường ĐH Khoa học tự nhiên – ĐH Quốc gia Hà Nội [1].
Chi tiết hơn, với 15 nhà bình duyệt xuất sắc, Việt Nam được xếp thứ 66; theo xếp hạng các báo cáo bình duyệt được xác nhận, Việt Nam xếp thứ 57 với 5.073 báo cáo. Các cây bút bình duyệt Việt Nam cũng đã hoạt động rất "chăm chỉ" trong 12 tháng qua với 2.614 báo cáo, xếp thứ 50. Ngay cả tại mặt trận còn mới mẻ như biên tập khoa học, chúng ta cũng xếp thứ 77 với 72 báo cáo biên tập được xác nhận. Thực tế, các con số này có thể tăng cao hơn nữa chỉ bằng cách đơn giản: cập nhật và chăm sóc hồ sơ Publons cá nhân. Trong tương lai, sự chủ động trong quản lý hồ sơ khoa học sẽ giúp ích rất nhiều cho quá trình nâng tầm khoa học Việt Nam [2].
Trước đó, vào tháng 10, báo cáo Global Research Report – South and East Asia do ISI công bố, đã nêu tên Việt Nam với tư cách là quốc gia có tốc độ tăng trưởng học thuật nhanh nhất ở khu vực Nam và Đông Nam Á kể từ năm 2009. Dữ liệu phục vụ cho báo cáo này cũng được trích xuất từ ISI WOS.
Sau khi được Clarivate Analytics mua lại từ Thomson Reuters vào năm
2016, ISI WOS đã có nhiều sự thay đổi để đáp ứng nhu cầu và sự cạnh
tranh của thị trường. Nổi bật nhất là nỗ lực kết nối thông tin giữa 3
vai trò quan trọng của một nhà khoa học là Tác giả (Author), Nhà bình
duyệt (Reviewer), và Biên tập viên (Editor) thông qua các CSDL là Web of
Science (các văn bản khoa học đã xuất bản chính thức), với ScholarOne
Manuscripts (hệ thống xử lý công tác biên tập các bản thảo đang trong
quá trình bình duyệt), và Publons (CSDL các cây bút bình duyệt và các
cây biên tập).
Mới nhất, ResearcherID Database của Thomson Reuters
cũ nay cũng đã tích hợp với Publons, biến CSDL này trở thành nơi truy
cập và tra cứu dữ liệu hồ sơ công bố ISI WOS đáng tin cậy nhất. Một số
NXB danh tiếng và giàu tài nguyên, như Science và Nature, có thể cung
cấp các số đo trích dẫn ISI WOS cho các bài đăng trên các tạp chí của
họ, tuy nhiên đây là con số gộp, chỉ có ý nghĩa xác nhận tính hợp lệ của
dữ liệu, chứ không cung cấp chi tiết nguồn. Nhưng Publons cho phép truy
nguyên nguồn gốc từng số đếm trích dẫn, nếu bài được đăng trên tạp chí
thuộc Core Collection của ISI WOS. |
Tham khảo:
[1] Vietnam Higher Education Advancing Research Team (VHEART). (2019). Bản tin Giáo dục Đại học Tháng 10 năm 2019. Bộ Giáo dục và Đào tạo. Retrieved from http://chuongtrinhkhgd.moet.gov.vn/content/tintuc/Lists/news/Attachments/4705/B%E1%BA%A3n%20tin%20GD%C4%90H%20T10_2019.pdf
[2] Vuong, Q. H. (2019). Breaking barriers in publishing demands a proactive attitude. Nature Human Behaviour, 3(10), 1034. doi: 10.1038/s41562-019-0667-6.