Các nhà khoa học sử dụng DNA của người hiện đại để ước tính độ tuổi thụ thai của các ông bố bà mẹ sống cách đây 250.000 năm.
Trong nghiên cứu đăng trên Nature, Richard Wang, nhà di truyền tiến hóa tại Đại học Indiana, Bloomington - và các đồng nghiệp đã sử dụng phần mềm để rà soát dữ liệu từ một nghiên cứu gồm khoảng 1.500 người Iceland và cha mẹ họ để theo dõi độ tuổi thụ thai và các thay đổi di truyền giữa ba thế hệ. Chương trình này học cách liên kết những đột biến nhất định và tần suất của chúng với độ tuổi và giới tính của cha mẹ. Sau đó, nhóm nghiên cứu áp dụng mô hình đã được huấn luyện này vào các bộ gen của 2.500 người hiện đại trên khắp thế giới để xác định đột biến xuất hiện ở những thời điểm khác nhau trong lịch sử nhân loại.
Bằng cách xác định thời điểm những đột biến này xuất hiện, nhóm nghiên cứu có thể vạch ra độ tuổi thụ thai trung bình của cha và mẹ trong hàng thiên niên kỷ qua. Cụ thể, các nhà nghiên cứu phát hiện 26,9 là độ tuổi thụ thai trung bình trong 250.000 năm qua. Nhưng khi phân tích thông tin này theo giới tính, kết quả cho thấy độ tuổi có con trung bình ở đàn ông là 30,7 - so với 23,2 ở phụ nữ. Những con số này dao động theo thời gian, nhưng mô hình cho thấy đàn ông luôn có con muộn hơn phụ nữ.
Theo Mikkel Schierup, nhà di truyền học quần thể tại Đại học Aarhus ở Đan Mạch, phát hiện này chỉ ra những yếu tố xã hội, chẳng hạn trong các xã hội phụ hệ, nam giới chịu áp lực phải xây dựng địa vị trước khi làm cha.
Nhà di truyền học quần thể Priya Moorjani tại Đại học California, Berkeley, cho biết mô hình này không tính đủ những yếu tố khác - bao gồm tiếp xúc môi trường - có thể ảnh hưởng đến việc khi nào đột biến xuất hiện. Điều này có nghĩa là đột biến do nhiều nguyên nhân khác nhau có thể bị quy kết một cách bất công cho độ tuổi của cha mẹ, nhiều khả năng làm sai lệch kết quả của những nghiên cứu như thế này, Moorjani và các nhà khoa học khác lập luận trong một bản thảo chưa qua bình duyệt được đăng vào tháng Sáu.
Wang cho biết, nghiên cứu của nhóm ông có tính tới một số yếu tố gây đột biến khác.
Tái hiện chính xác khi nào con người trở thành cha mẹ sẽ cần lấy mẫu nhiều quần thể hơn, theo Schierup. Trong lúc đó, nghiên cứu này mang lại “các ước tính hợp lý”, giúp các nhà nghiên cứu có những hiểu biết về đời sống của con người sơ khai.
Nguồn:
Đào Liên