Freeman Dyson, nhà vật lý lượng tử nổi tiếng người Anh đã qua đời ngày 28/2, hưởng thọ 96 tuổi.

Freeman Dyson tại Viện nghiên cứu cao cấp Princeton năm 1972. Nguồn: ias.edu
Freeman Dyson tại Viện nghiên cứu cao cấp Princeton năm 1972. Nguồn: ias.edu

Tiếc rằng cho đến nay, độc giả VN hãy còn biết quá ít về ông, một người vùa háo hức về tri thức, luôn luôn khai phá những cái mới, vừa ưu tư về tôn giáo, môi trường, tương lai của nhân loại và hành tinh chúng ta, tuy ông có hàng loạt sách về khoa học rất hay và đượm tinh thần nhân văn, triết học, nhận thức luận và khai phá:

Xin có đôi lời ngắn ngủi về ông qua vài trích dẫn từ một số bài viết của ông.

Trong một bài tiêu đề “The Scientist as Rebel” – Nhà khoa học như Kẻ nổi loạn - ông có nhiều nhận xét thú vị:

Đối với thế hệ các nhà khoa học Nhật Bản đầu tiên vào thế kỷ XIX, khoa học là một cuộc nổi loạn chống lại văn hóa phong kiến truyền thống. Đối với các nhà vật lý vĩ đại của Ấn Độ trong thế kỷ này (20), như Raman, Bose và Saha, khoa học là một cuộc nổi loạn kép, lần đầu tiên chống lại sự thống trị của người Anh và lần thứ hai chống lại đạo đức chết người của chủ nghĩa Hindu. Và ở phương Tây cũng vậy, các nhà khoa học vĩ đại từ Galileo đến Einstein đã từng là những kẻ nổi loạn.

Từ những điều này và nhiều ví dụ khác, chúng ta thấy rằng khoa học không bị chi phối bởi các quy tắc của triết học phương Tây hay phương pháp luận phương Tây. Khoa học là một liên minh của những cái đầu tự do trong tất cả các nền văn hóa để chống lại sự chuyên chế địa phương mà mỗi nền văn hóa áp đặt lên con cái của nó. Trong chừng mực là một nhà khoa học, tầm nhìn của tôi về vũ trụ không phải là chủ nghĩa giản lược hay phản giản lược. Tôi không sử dụng bất kỳ chủ nghĩa phương Tây nào. Tôi cảm thấy mình là một lữ khách trong cuộc "Hành trình bao la" của nhà cổ sinh vật học Loren Eiseley, một hành trình dài hơn nhiều so với lịch sử của các quốc gia và các loại triết học, thậm chí còn dài hơn cả lịch sử của loài người chúng ta.

.

Một vài năm trước, một cuộc triển lãm nghệ thuật hang động Thời đồ đá cổ đã được đưa đến Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên ở New York. Đó là một cơ hội tuyệt vời để nhìn thấy tại một nơi các hình chạm khắc bằng đá và xương thường được lưu giữ trong một tá bảo tàng viện riêng biệt ở Pháp. Hầu hết các chạm khắc đã được thực hiện ở Pháp khoảng 14.000 năm trước, trong một thời gian ngắn thăng hoa của sáng tạo nghệ thuật vào cuối kỷ băng hà cuối cùng. Vẻ đẹp và sự tinh tế của các chạm khắc là phi thường. Những người chạm khắc những đồ vật này không thể là những thợ săn bình thường đang giải trí trước đám lửa trong hang động. Họ phải là những nghệ nhân được đào tạo và duy trì bởi một nền văn hóa cao.

Và điều ngạc nhiên lớn nhất, khi bạn nhìn thấy những đồ vật này lần đầu tiên, là thực tế rằng văn hóa của họ không phải là phương Tây. Chúng hoàn toàn không giống với nghệ thuật nguyên thủy phát sinh 10.000 năm sau ở Mesopotamia và Ai Cập và Crete. Nếu tôi không biết rằng nghệ thuật hang động cổ đã được tìm thấy ở Pháp, tôi sẽ đoán rằng nó đến từ Nhật Bản. Phong cách này ngày nay trông giống Nhật Bản hơn châu Âu. Triển lãm đó đã cho chúng ta thấy một cách sinh động rằng qua các giai đoạn 10.000 năm trước, sự khác biệt giữa văn hóa phương Tây và phương Đông và châu Phi mất đi hết ý nghĩa. Trong khoảng thời gian 100.000 năm trước, tất cả chúng ta đều là người châu Phi. Và trong khoảng thời gian 300 triệu năm, tất cả chúng ta đều là động vật lưỡng cư, lạch bạch bước ra khỏi các ao hồ khô cạn để lên các vùng đất xa lạ và thù địch.

Trong bài “Một New Newton", (Newton Mới), có đoạn Dyson viết: Thế kỷ 17 (từ 16 lận) xuất hiện hai dòng tư duy có tính phương pháp luận ảnh hưởng lớn lên sự phát triển của khoa học – cho đến ngày hôm nay:

Vào đầu thế kỷ XVII hai nhà triết học vĩ đại là Francis Bacon ở Anh và René Descartes ở Pháp tuyên bố sự ra đời của khoa học hiện đại. Bacon và Descartes có tầm nhìn rất khác nhau về cách theo đuổi khoa học. Theo Bacon, các nhà khoa học nên thử nghiệm một cách tự do và thu thập các dữ liệu về mọi thứ trên thế giới, cho đến thời điểm chín mùi, việc tích lũy các sự kiện sẽ làm rõ nét cách vận hành của tự nhiên. Từ kho lưu trữ các dữ kiện tích lũy, các nhà khoa học sẽ tạo ra các quy luật tự nhiên.

Theo Descartes, các nhà khoa học nên suy luận quy luật tự nhiên bằng lý tính thuần túy, bắt đầu từ các tiên đề của toán học và kiến thức của chúng ta về sự tồn tại của Thiên Chúa. Các thí nghiệm chỉ cần được thực hiện để xác minh rằng suy luận logic của các quy luật tự nhiên là chính xác. Trong thế kỷ XVII, khoa học ở Anh có xu hướng đi theo con đường của Bacon, với Royal Society ở London thu thập dữ liệu về mọi thứ, từ bê hai đầu đến mưa bão của ếch và cá. Khoa học ở Pháp đi theo con đường Catesian, và bị chi phối bởi lý thuyết các vùng xoáy (vortices) của Descartes. Các vùng xoáy Cartesian được cho là lấp đầy không gian trên Trái đất và trên trời, đẩy các thiên thể dọc theo quỹ đạo của chúng trên bầu trời. Vào thời điểm Newton thực hiện những khám phá của mình, những người hàn lâm của Anh chủ yếu làm khoa học theo kiểu thực nghiệm của Bacon, nhưng hầu hết họ tin vào lý thuyết vùng xoáy của Descartes vì đó là lý thuyết duy nhất có sẵn.

Bản thân Newton là một người theo chủ nghĩa Descartes, đạt được những hiểu biết sâu sắc về bản chất của sự vật bằng tư duy thuần túy như Descartes dự kiến. Khi viết Principia, ông đã viết nó theo phong cách Cartesian, nêu rõ kết luận của mình dưới dạng các mệnh đề và định lý, và sử dụng các phương pháp hình học thuần túy để chứng minh chúng. Nhưng không giống như Descartes, bản thân ông là một người thí nghiệm và hiểu tầm quan trọng của các thí nghiệm chính xác để kiểm tra các lý thuyết. Vì vậy, ở Principia, ông đã thành công rực rỡ trong việc sử dụng phương pháp Cartesian để phá hủy lý thuyết Cartesian. Trong hai tập đầu tiên, ông đã xây dựng một tòa nhà lớn về toán học, mạch lạc hơn bất cứ thứ gì Descartes đã có thể cung cấp, và sau đó trong tập thứ ba, ông đã thực hiện cuộc đảo chính, chứng minh với một sự phong phú của các dữ kiện quan sát rằng tự nhiên đã khiêu vũ theo giai điệu của ông. Ngay sau khi Principia được xuất bản và lưu hành rộng rãi, các vùng xoáy Cartesian đã chết.

Trong một bài tiểu luận “Technology and Social Justice” (Công nghệ và Công bằng xã hội), Dyson viết:

Trong những câu chuyện mà tôi đã kể trong chương này, công nghệ đến đầu tiên và đạo đức đến thứ hai. Tôi đã mô tả các quá trình lịch sử trong đó những thay đổi công nghệ diễn ra đầu tiên, và sau đó là sự gia tăng hay suy giảm của công bằng xã hội diễn ra như một hệ quả. Quan điểm về lịch sử này trái ngược với quan điểm được đưa ra bởi Max Weber trong cuốn sách nổi tiếng Đạo đức Tin lành và Tinh thần của chủ nghĩa tư bản. Weber cho rằng Đạo đức Tin lành đến trước, sự trỗi dậy của chủ nghĩa tư bản và các công nghệ liên quan đến chủ nghĩa tư bản là diễn ra sau. Quan điểm của Weber đã trở thành quan điểm phổ biến của các nhà sử học hiện đại. Weber nói rằng đạo đức đã thúc đẩy công nghệ. Tôi nói rằng công nghệ thúc đẩy đạo đức.

Tôi không cố gắng chứng minh Weber là sai. Tầm nhìn lịch sử của ông vẫn còn rất đúng. Đúng là cuộc cách mạng tôn giáo của thế kỷ XVI đã tạo ra một đạo đức của trách nhiệm cá nhân và truy vấn không ngừng nghỉ, một đạo đức khuyến khích sự phát triển của doanh nghiệp tư bản và đổi mới công nghệ. Không phải ngẫu nhiên mà Isaac Newton, kiến trúc sư ưu tú của khoa học hiện đại, cũng là một nhà thần học Tin lành. Ông coi thần học của mình nghiêm túc như khoa học của mình. Không phải ngẫu nhiên mà Vua Henry VIII, người đã mang cuộc cách mạng Tin lành đến Anh, cũng đã ban tặng trường College nơi Newton sống và giảng dạy. Henry và Isaac là những tâm hồn gần gũi nhau, cả hai đều nổi loạn chống lại chính quyền, cả hai đều là kẻ thù của Giáo hoàng, cả hai đều là bạo chúa, cả hai đều là những kẻ siêu ích kỷ, cả hai đều nghi ngờ đến mức hoang tưởng, cả hai đều tin vào đạo đức Tin lành, cả hai đều yêu công nghệ. Henry thích đóng tàu và Isaac thích chế tạo kính viễn vọng. Đúng là đạo đức có thể thúc đẩy công nghệ. Tôi chỉ nói rằng đây không phải là toàn bộ sự thật, rằng công nghệ cũng có thể thúc đẩy đạo đức, rằng chuỗi nhân quả hoạt động theo cả hai hướng. Công nghệ in ấn đã giúp gây nên sự trỗi dậy của đạo đức Tin lành cũng giống như đạo đức Tin lành đã giúp gây nên sự gia tăng của hàng hải và thiên văn học.

Câu cuối cùng của bài Essay “Công nghệ và Công bằng xã hội” của Dyson là như sau:

Đạo đức phải dẫn dắt công nghệ theo hướng công bằng xã hội. Chúng ta hãy giúp thúc đẩy thế giới theo hướng đó hết sức như có thể. Không có gì làm hại khi chúng ta hy vọng.

***

Cuốn Origins of Life của Freeman Dyson.
Cuốn sách Origins of Life của Freeman Dyson.

Tri thức của Dyson là đại dương, có tính khai phóng, và có phong cách. Dyson trích dẫn mẹ ông: “Giáo dục là những gì còn sót lại sau khi bạn quên đi mọi thứ bạn từng học." Cái còn lại đối với ông chính là phong cách - style. Ông đề cập đến các tác giả cổ điển được dạy ở trường, như Tacitus và Horace, nhưng có lẽ đến những nhà tư tưởng ông ngưỡng mộ như Feynman và Stapledon. Ông rất ghét sự cô lập, khao khát không gian rộng lớn:

Tôi ghét trường College (Winchester, trường công nội trú dành cho thanh niên) vì đã duy trì đặc quyền của giai cấp thống trị. Tôi ghét nó vì nó tách tôi ra khỏi đám đông người Anh bên ngoài những bức tường thiêng liêng. Tôi rời trường năm 1941 với cuộc chiến giữa tình yêu và thù hận chưa được giải quyết. Tôi không phải là một Wykehamist trung thành (của Winchester College). Tôi rời Anh và vui mừng nuôi dạy con ở Mỹ, một phần để thoát khỏi cái văn hóa của trường nội trú nơi tôi đã lớn lên. Tôi đã gửi con đến một trường học công lập ở Mỹ và không cần phải suy nghĩ đến việc gửi chúng đến Winchester.

Điều này cũng đúng chính trong khoa học của ông: Ông có hành trình qua cả miền đất khoa học bao la chứ không chịu giới hạn ở bất cứ đâu. Ông có sự khao khát cháy bỏng của tri thức hoàn vũ. Ông là con người của thế giới hoàn vũ.

Dyson sinh ra ở Anh vào năm 1923 và chuyển đến Hoa Kỳ vào năm 1947. Ông đã dành phần lớn cuộc đời của mình tại Viện nghiên cứu Cao cấp của Đại học Princeton. Dyson được biết đến rộng rãi với một kết quả nổi bật vào cuối những năm 1940 về tương tác giữa ánh sáng và vật chất. Ông cũng đã xuất bản các bài báo về rất nhiều các chủ đề như tương lai của con người và vũ trụ, tàu vũ trụ chạy bằng năng lượng hạt nhân.

Dyson đã tạo ra những hiểu biết khoa học mang tính cách mạng, bao gồm các tính toán kết nối thế giới lượng tử và con người. Những đóng góp của ông đến từ việc nghiên cứu trong nhiều lĩnh vực, bao gồm kỹ thuật hạt nhân, vật lý chất rắn, sắt từ, vật lý thiên văn, sinh học và toán học ứng dụng. Ông tin rằng sự nóng lên toàn cầu là do sự tăng lên của carbon dioxide từ việc đốt nhiên liệu hóa thạch. Ông cho rằng vấn đề biến đổi khí hậu làm giảm sự quan tâm của thế giới đến các vấn đề toàn cầu khác cần được ưu tiên hơn.

Ngoài ra, Dyson cũng có một ý tưởng nổi tiếng là "quả cầu Dyson", một cấu trúc giả thuyết mà một nền văn minh có thể xây dựng xung quanh một ngôi sao. Khái niệm này đã đi vào khoa học viễn tưởng và thiên văn học.

Văn Thiện