Luật Giáo dục hiện hành quy định học sinh phải thi tốt nghiệp THPT mới đủ điều kiện xét cấp bằng tốt nghiệp (Điều 31). Tuy vậy, luật không phải là nhất thành bất biến, việc thay đổi, điều chỉnh, sửa chữa luật là chuyện thường ngày ở tất cả mọi nước, nhằm thực hiện những can thiệp cần thiết khi bối cảnh xã hội biến đổi không còn như trước.

Sau những bê bối xảy ra trong kỳ thi tốt nghiệp THPT vừa qua, hiện rộ lên hai luồng ý kiến về kỳ thi “hai trong một” (thi tốt nghiệp phổ thông và có thể dùng kết quả đó để xét tuyển đại học): một cho rằng nên tiếp tục duy trì; một đề nghị giao việc xét tốt nghiệp phổ thông về cho các trường phổ thông, còn giao việc tuyển sinh đại học cho các trường đại học.

Lựa chọn nào cũng sẽ có cái được và cái mất, điều quan trọng là hiểu tại sao chúng ta lại lựa chọn như thế, và liệu có lựa chọn nào khác tốt hơn cho sự phát triển của đất nước?

Những kỳ thi bị bóp méo bởi tiêu cực

Một số ý kiến nói rằng thi tốt nghiệp phổ thông mà đỗ gần 100% thì tổ chức thi làm gì. Thật ra lý lẽ này không đứng vững. Mục đích của thi tốt nghiệp phổ thông không phải nhằm loại ra một tỉ lệ nào đó không đạt. Nước Pháp ngày nay vẫn còn duy trì kỳ thi tốt nghiệp phổ thông với tỉ lệ đỗ trên 90% nhưng không ai nghi ngờ có vấn đề tiêu cực. Ngay cả trong trường hợp đỗ hầu hết, kết quả thi thể hiện qua phổ điểm các môn vẫn là một nguồn thông tin quý giá để đánh giá chất lượng và so sánh giữa các tỉnh thành hoặc các cơ sở giáo dục, từ đó giúp hiểu rõ hơn trong những điều kiện cụ thể chất lượng giáo dục đã chịu những tác động nào.

Trong khi đó, những người ủng hộ việc tiếp tục duy trì kỳ thi tốt nghiệp phổ thông dựa trên những lý lẽ chính sau đây: (1) Không thi thì học trò không chịu học; (2) Một kỳ thi cấp quốc gia sẽ đảm bảo chuẩn chất lượng chung của khung trình độ quốc gia, tránh tình trạng cùng một tấm bằng nhưng kiến thức đạt được rất khác nhau do chất lượng đào tạo của các trường hay các vùng miền có thể rất khác nhau; (3) Kết quả kỳ thi có thể giúp cơ quan quản lý đánh giá chất lượng đào tạo của các cơ sở giáo dục hoặc vùng miền, từ đó điều chỉnh chính sách cho phù hợp.

Đó là nói về mặt lý thuyết. Còn trên thực tế, tiêu cực trong thi cử đã bóp méo kết quả và khiến cho việc duy trì kỳ thi tốt nghiệp phổ thông theo cách chúng ta đang làm lâu nay đã không đạt được cả ba mục tiêu nói trên.

Nếu nói có thi học trò mới chịu học, thì chúng ta phải tự hỏi liệu học thuộc lòng, học tủ, học mánh khóe làm bài… sẽ giúp ích gì cho người học khi tham gia vào thị trường lao động, khi cạnh tranh với lực lượng lao động toàn cầu? Những kỹ năng đó có giúp nâng cao năng suất lao động, tạo ra thêm nhiều của cải và giá trị cho xã hội?

Nếu nói thi là để đảm bảo chuẩn chất lượng chung, thì với những tiêu cực đã lộ diện như Bạc Liêu năm 2006, Đồi Ngô 2012, Hà Giang - Sơn La - Hòa Bình năm 2018, chúng ta có chắc đạt được chuẩn mực ngang bằng ở tất cả các học sinh tốt nghiệp phổ thông trong cả nước?

Nếu nói kết quả thi có thể giúp đánh giá chất lượng giáo dục phổ thông giữa các trường và các địa phương, đã có bao giờ chúng ta đọc được một nghiên cứu phân tích những kết quả này, và nếu có thì liệu những phân tích đó đã góp phần điều chỉnh chính sách như thế nào?

Thí sinh dự thi kỳ thi tốt nghiệp THPT quốc gia năm 2017. Ảnh: sggp.org.vn

Nguy cơ xói mòn chất lượng giáo dục

Nói vậy không phải là phủ nhận ý nghĩa và tầm quan trọng của kỳ thi tốt nghiệp phổ thông quốc gia. Nhưng nếu nhất thiết cần có kỳ thi này vì những lý do đã nói trên, thì chắc chắn nó phải được tổ chức theo cách khác, dựa trên quan điểm khác.

Đã có nhiều chuyên gia trên thế giới lên tiếng, việc đánh giá kết quả 12 năm học phổ thông bằng một kỳ thi độc nhất sẽ xói mòn chất lượng giáo dục. Giáo dục là một quá trình, và giáo dục phổ thông bao gồm những giá trị rộng lớn và quan trọng hơn nhiều so với những kiến thức mà ta có thể kiểm tra qua bài thi tốt nghiệp. Vì thế nếu ta coi rằng không đạt kỳ thi này nghĩa là 12 năm giáo dục có giá trị bằng không, thì đó là một quan điểm phiến diện và bất công đối với người học cũng như với các thầy cô giáo. Áp lực đối với kỳ thi cũng làm biến dạng quá trình giáo dục, đặc biệt là ở một xã hội vẫn còn trọng thi cử và bằng cấp như các xã hội Đông Á, trong đó có Việt Nam. Nó tạo ra hệ quả “học để thi”, khiến những môn không thi bị xem nhẹ, và những nội dung giáo dục khác ngoài kiến thức không được đánh giá đúng.

Vì lẽ đó, hầu hết các bang ở Mỹ đều cho phép học sinh thi nhiều lần trong năm và kể cả trong nhiều năm cho tới khi đạt. Mục tiêu của kỳ thi nhằm bảo đảm rằng học sinh đã được chuẩn bị đầy đủ những năng lực cơ bản cần thiết cho việc tham gia vào lực lượng lao động hoặc tiếp tục học chuyên sâu hay học lên cao hơn. Có bang như Ohio cho phép thí sinh thay vì dự thi tốt nghiệp có thể nộp một giấy chứng nhận thực tập tại những doanh nghiệp có uy tín, nhằm khích lệ việc “học đi đôi với hành” và thể hiện quan điểm coi trọng chất lượng giáo dục toàn diện, không chỉ là kiến thức.

Với thực tế hiện nay của Việt Nam, thì bỏ thi tốt nghiệp phổ thông sẽ tạo ra những hệ quả gì?

Trước hết, nó có thể tạo ra một trong hai hiệu ứng trái ngược, tùy theo cách nhà trường và xã hội đáp ứng với nó. Nó có thể khiến học sinh hoàn toàn buông lỏng việc học, như đã có nhiều người lo ngại. Nhưng nó cũng có thể làm thay đổi bản chất việc dạy và học trong trường phổ thông theo hướng tập trung vào quá trình giáo dục thay vì thi cử, nếu như những điều kiện khác của hoạt động giáo dục được đáp ứng phù hợp. Ai cũng hiểu đây là con đường dài nhưng nếu không đặt những bước chân đầu tiên thì không bao giờ chúng ta có thể đến đích.

Đối với các trường đại học, điều này có nghĩa là các trường không có chỗ dựa và phải tự tổ chức thi tuyển đầu vào, nếu như không có một trung tâm khảo thí độc lập nào đứng ra làm việc này. Về mặt lý thuyết, không có gì bảo đảm là tiêu cực sẽ không chuyển từ nơi này sang nơi khác.

Hy vọng về một cuộc đua ngược

Nếu cần có một kỳ thi quốc gia nhằm vào mục tiêu đánh giá chất lượng khách quan và làm cơ sở để xây dựng chính sách, thì nó phải được tổ chức và thiết kế theo cách phục vụ mục tiêu này. Đề thi phải được xây dựng dựa trên chuẩn đầu ra của chương trình giáo dục, và phải được thử nghiệm một cách thích hợp. Ai đã từng làm bài thi thử TOELF hay IELTS đều biết nếu ta làm nhiều lần liên tiếp với những đề khác nhau, thì kết quả mỗi lần cũng không khác nhau là bao. Đó là do đề thi đã được nghiên cứu và thử nghiệm rất kỹ, kết hợp những mức độ dễ và khó khác nhau để đo lường chính xác kiến thức của thí sinh. Nếu không làm được điều này, thì bỏ thi tốt nghiệp phổ thông là tốt nhất.

Nói rằng “cần giao việc tuyển sinh đại học về cho các trường đại học” là gõ một cánh cửa đã mở, vì hiện nay các trường đã có toàn quyền quyết định phương thức tuyển sinh rồi. Quả bóng đang ở trong chân các trường đại học, không ai ngăn họ tìm ra nhiều phương thức thích hợp để tuyển sinh, trong đó điểm tốt nghiệp chỉ là một phần, thậm chí phần thứ yếu.

Tiêu cực xảy ra là do thí sinh cần dùng điểm thi tốt nghiệp THPT để cạnh tranh cuộc đua vào những đại học tốt, và các địa phương thì cần thành tích. Sâu xa hơn là do việc dùng người không thực sự dựa trên năng lực thật.

Nếu điểm thi tốt nghiệp phổ thông chỉ là một yếu tố để xét tuyển đại học, nếu thí sinh có thể thi lại nhiều lần cho đến khi đạt được điểm tốt nhất trong khả năng của mình, thì nhu cầu gian lận sẽ giảm. Nếu tấm bằng không đi cùng năng lực thật trở thành vô giá trị, thì không ai gian lận làm gì. Nếu các địa phương không bị đánh giá hay cắt giảm ngân sách do kết quả thi kém, thì họ cũng không có nhu cầu học sinh tốt nghiệp phổ thông với tỷ lệ và số điểm càng cao càng tốt. Thử hình dung, nếu các địa phương có kết quả thi thấp được cấp thêm kinh phí để cải thiện chất lượng giáo dục, có khi ta lại chứng kiến một cuộc đua ngược lại không chừng!