Trong số các văn bản quy định pháp luật về khoa học được ban hành trong vòng năm năm trở lại đây thì Nghị định 70/2018/NĐ-CP (quy định việc quản lý, sử dụng tài sản được hình thành thông qua việc triển khai thực hiện nhiệm vụ KH&CN sử dụng vốn nhà nước) là một trong những văn bản gây sóng gió nhiều nhất. Nếu các nghị định về cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm trực tiếp tác động đến hoạt động của các tổ chức KH&CN công lập thì Nghị định 70 thực chất liên quan đến cả khối doanh nghiệp, những bên đang mong chờ các giải pháp công nghệ từ các nhà khoa học để giải bài toán của mình.
Do đó, không chỉ các nhà khoa học và nhà quản lý mà cả khối doanh nghiệp cũng đang chờ đợi khả năng có được một văn bản tháo gỡ nút thắt.
Nhưng tháo gỡ như thế nào đây, theo cơ chế thị trường hay phù hợp với thông lệ quốc tế? Ngay cả ông Nguyễn Tân Thịnh, Cục trưởng Cục Quản lý công sản (Bộ Tài chính), ở vị trí của người tham gia sửa đổi Nghị định 70, cũng băn khoăn, vì ông cho rằng, nếu định giá tài sản hình thành thì nhiệm vụ KHCN sử dụng vốn nhà nước “theo cơ chế thị trường, tức là định giá theo chi phí thì không biết có đúng không, còn phù hợp với thông lệ quốc tế, tức là thu lại tiền qua thuế thì rất phức tạp. Nếu áp dụng theo thông lệ quốc tế với việc sử dụng vốn ngân sách thì sẽ ứng xử như thế nào?”.
Đó là câu hỏi mà các nhà quản lý cần phải giải quyết khi nghĩ đến việc lựa chọn một lời giải tương xứng cho Nghị định 70.
Trao quyền sở hữu cho nhà nghiên cứu?Vướng mắc lớn nhất trong số những vướng mắc phát sinh từ quá trình thực thi Nghị định 70 là ở chỗ tưởng chừng nhà khoa học - người tìm ra cái mới và “cha đẻ” của sản phẩm thu được từ đề tài KH&CN – sẽ có quyền quyết định trong việc nên hay không nên chuyển giao nó cho người có nhu cầu nhưng hóa ra lại không làm được việc này vì không sở hữu nó trong trường hợp phần ngân sách nhà nước trong kinh phí thực hiện đề tài là trên 30%. Khi ấy dĩ nhiên, kết quả đó là tài sản của nhà nước.
Theo điều 4 của Nghị định 70 về “nguyên tắc quản lý, sử dụng tài sản được hình thành từ việc triển khai thực hiện nhiệm vụ KH&CN sử dụng vốn nhà nước” thì “tài sản hình thành thông qua việc triển khai thực hiện nhiệm vụ ngân sách cấp là tài sản công”. Nhiều nhà khoa học cho biết, việc coi kết quả của đề tài KH&CN là tài sản công khiến cho mọi việc liên quan đến định giá, chuyển giao đều gần như không thể thực hiện nổi trong điều kiện thực tế hiện nay.
Vấn đề sửa đổi Nghị định 70 giờ đây đang tập trung ở quan điểm: coi nghiên cứu KH&CN như một hoạt động đổi mới sáng tạo ở mức cao nhất để chấp nhận rủi ro và có thể nhận được những phần lãi dài hạn ở tương lai, cả về nguồn lực vật chất lẫn con người.
|
Như vậy, có nên thay đổi cơ chế sở hữu sản phẩm và kết quả thu được từ đề tài KHCN hay không? Ở góc độ một nhà quản lý, bà Nguyễn Thị Ngọc Diệp, Vụ trưởng Vụ Pháp chế (Bộ KH&CN) cho rằng, trước khi xác định đến việc ai nắm giữ quyền tài sản, cần nên định hướng phân chia các loại hình nhiệm vụ KH&CN, không nên “bỏ chung vào một giỏ”: đối với nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản có kết quả là bài báo, công bố với các tri thức chung thì không phải tài sản để quản lý; còn đối với nhiệm vụ nghiên cứu định hướng ứng dụng, có thể tạo ra kết quả trung gian, sản phẩm để thử nghiệm mô hình, thì sản phẩm đó cũng không phải là tài sản.
Khi đó, các nhiệm vụ KH&CN có đem lại các công nghệ, các kết quả có thể chuyển giao mới cần được xem xét và được coi là tài sản.
Đây cũng là quan điểm của đại diện Viettel, “với sản phẩm vô hình (bao gồm tài sản trí tuệ và quyền sở hữu trí tuệ theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ), chúng ta không nên đề cập đến quyền sở hữu mà nên đề cập đến chuyển quyền sử dụng, bởi nếu là quyền sở hữu thì chúng ta lại đề cập đến chuyện định giá, nó sẽ là một vòng xoáy lẩn quẩn không thể thoát ra được”.
Trong các hoạt động KH&CN, không hiếm các nhiệm vụ KH&CN do nhà nước đặt hàng cũng như các nhiệm vụ là đề xuất từ dưới lên. Do đó, bà Nguyễn Thị Ngọc Diệp cho rằng với các kết quả hình thành từ dạng thứ nhất thì “người sở hữu là đơn vị đặt hàng phải có trách nhiệm thương mại hóa”; còn với những kết quả “từ nhiệm vụ đề xuất từ dưới lên theo định hướng nghiên cứu của nhà nước thì chúng ta nên mạnh dạn giao cho chính nhà khoa học để họ có thể chuyển giao những kết quả này cho doanh nghiệp, qua đó có thể có ‘lối thoát’ trong việc xử lý tài sản hình thành sau nhiệm vụ KH&CN. Khi nhà nước chủ động giao quyền để xác lập quyền sở hữu thì tổ chức chủ trì nhiệm vụ mới có thể thương mại hóa kết quả nghiên cứu”.
Cùng có mặt tại cuộc họp “Đổi mới cơ chế quản lý, xử lý tài sản hình thành từ việc triển khai thực hiện nhiệm vụ KH&CN sử dụng ngân sách nhà nước” (ngày 24/12/2023), ông Nguyễn Phú Bình, Phó Giám đốc phụ trách Văn phòng Chương trình Quốc gia (Bộ KH&CN) đồng thuận “Trong nghị định này, tôi nghĩ là nên giao quyền tối đa cho đơn vị chủ trì quản lý tài sản hình thành, nhà nước không can thiệp vào thì mới có thể tháo gỡ được”. Khi các nhà quản lý không coi kết quả nghiên cứu của các đề tài, nhiệm vụ KH&CN là tài sản công và trao quyền cho nhà khoa học và đơn vị chủ trì thì họ mới có thể có được cơ sở pháp lý để “danh chính ngôn thuận” chuyển giao cho doanh nghiệp có nhu cầu đổi mới công nghệ.
Nếu trao quyền cho nhà nghiên cứu là một cách làm quá mới thì các nhà quản lý có thể suy ngẫm lời đề xuất của TS. Nguyễn Thanh Mỹ, Tổng Giám đốc Mylan Group, nêu trong một hội nghị về thương mại hóa kết quả nghiên cứu do Bộ KH&CN phối hợp với ĐHQG TPHCM tổ chức vào năm 2020, đó là “cho các thầy được phép thuê lại kết quả nghiên cứu, tài sản trí tuệ đó để các thầy có thể làm lớn chứ không còn phải làm lén nữa”.
Chúng ta vẫn còn đang ở trong giai đoạn khởi đầu của thị trường KH&CN, mọi thứ còn sơ khai thì chúng ta cần chấp nhận tồn tại một sự hỗn độn nhất định để thúc đẩy quá trình đưa kết quả KH&CN đưa vào ứng dụng trong thực tiễn đã. Sau này, khi thị trường hình thành tương đối ổn định rồi, chúng ta có thể siết chặt lại. Đây cũng là bài học mà như Trung Quốc từng áp dụng thành công để cuối cùng thu được thành quả”
PGS. TS Trần Quốc Bình
|
Dẫu trong Nghị định 70, một văn bản quy phạm pháp luật “không rành mạch về quyền sở hữu” như nhận xét của phó giáo sư Nguyễn Ái Việt (Viện Công nghệ thông tin, ĐHQGHN), vẫn còn một số vấn đề khác nhưng việc gỡ đi một rào cản trọng yếu như vậy sẽ góp phần tạo điều kiện cho công nghệ từ phòng thí nghiệm ra đến thị trường. Đó cũng là một hướng mở mà nhiều nhà khoa học và nhiều nhà quản lý khoa học giàu kinh nghiệm cũng đề xuất, bởi theo lý giải của TS. Nguyễn Quân, nguyên Bộ trưởng Bộ KH&CN “Nếu nhà nước không giao quyền sở hữu cho nhà khoa học để họ thương mại hóa thì nhà nước có giữ cũng chẳng làm được việc thương mại hóa sản phẩm vì know-how chỉ nằm trong đầu nhà khoa học đã tạo ra nó”.
Dẫu vậy thì giao quyền sở hữu lại có liên đới với định giá trong khi thị trường KH&CN Việt Nam vẫn còn ở mức sơ khai, chưa đầy đủ, đặc biệt thiếu một số loại hình tổ chức trung gian, định giá có uy tín. “Ở nước ngoài người ta có hệ thống định giá hết sức uy tín. Tại sao họ định giá được là Microsoft là bao nhiêu tỉ USD, trong đó phần lớn là từ thương hiệu. Các doanh nghiệp lớn trên thế giới đều là vậy. Thương hiệu phải có người định giá. Ở ta không có người làm việc đó, không có ai có kinh nghiệm được giao làm nhiệm vụ đó, trong khi không định giá được thì không giao được quyền sở hữu”, TS. Nguyễn Quân làm thử một phép phân tích.
Tuy nhiên, với quan điểm của các nhà quản lý tài chính thì hướng giải quyết này có phần rủi ro vì có nguy cơ làm thất thoát tài sản của nhà nước.
Liệu có lối thoát?Giữa những bùng nhùng và chồng chéo của những quy định từ Nghị định 70 và những thông tư hướng dẫn thực hiện, các nhà nghiên cứu đang phải hết sức chật vật để tìm cách thương mại hóa, nếu còn tha thiết muốn sản phẩm mình làm ra có cơ hội xuất hiện trong đời sống xã hội. Những cách lách theo kiểu “tự tháo gỡ”, “chuyển nhượng chui” xuất hiện ở đâu đó khiến cho một số kết quả nghiên cứu thoát khỏi cảnh “cất ngăn kéo” nhưng lại hàm chứa một số hệ lụy mà một trong số đó là nguy cơ vi phạm pháp luật, nếu mọi chuyện vỡ lở, hoặc lao động của nhà nghiên cứu không được đánh giá tương xứng, hoặc nhà nước chẳng thể thu lại được gì…