Công nghệ lồng Na Uy được thiết kế bằng ống nhựa HDPE với hệ thống phao nổi và sử dụng lưới cước dệt để làm lồng nuôi đang được Công ty TNHH dịch vụ kỹ thuật Nông - Lâm - Thủy sản TNĐ ứng dụng nuôi cá diêu hồng, rô phi, trắm đen, cá chép trên lòng hồ Thác Bà (Yên Bái).
Đây là nội dung dự án “Xây dựng mô hình ứng dụng tiến bộ kỹ thuật nuôi thủy sản bằng lồng trên hồ Thác Bà” thuộc chương trình “Hỗ trợ ứng dụng và chuyển giao tiến bộ khoa học và công nghệ phục vụ phát triển kinh tế xã hội nông thôn và miền núi giai đoạn 2016 - 2020" (Chương trình Nông thôn Miền núi) đã được Hội đồng khoa học cấp nhà nước, Bộ Khoa học và Công nghệ phê duyệt cho phép Công ty TNĐ triển khai thực hiện từ tháng 11/2016 – 10/2018.
Kết quả bước đầu
Bà Phạm Thị Đông – thư ký quản lý dự án, Công ty TNĐ - cho biết, ngay sau khi dự án được phê duyệt, đơn vị đã bắt tay vào triển khai thực hiện. Với mô hình ương nuôi cá giống, dự án đã tiến hành nuôi tại ao 32.000 con cá 21 ngày tuổi. Mô hình nuôi thương phẩm cá chép lai V1 vụ thứ nhất đã tiến hành thả 7.500/15.000 con, cỡ 120-150gr/con. Mô hình nuôi thương phẩm cá rô phi đã thả 43.750 con. Mô hình nuôi thương phẩm cá trắm đen đã thả 2.000 con.
Kết quả kiểm tra tình hình triển khai dự án được Văn phòng Chương trình Nông thôn - Miền núi thực hiện ngày 27/8/2017 cho thấy, dự án đã tiến hành khảo sát môi trường, tu sửa lồng nuôi sản xuất giống; các mô hình nuôi cá giống, cá thương phẩm đang được xây dựng.
Theo đơn vị chủ trì, dự án tiếp nhận sự hỗ trợ và tổ chức ứng dụng 5 quy trình công nghệ ương cá giống, nuôi thương phẩm cá chép lai V1, rô phi và trắm đen trong lồng, gồm các quy trình công nghệ ương giống cá chép lai V1 trong ao; ương giống cá rô phi đơn tính trong ao; nuôi công nghiệp cá chép lai V1 trong lồng; nuôi công nghiệp cá rô phi đơn tính trong lồng; nuôi công nghiệp cá trắm đen trong lồng.
Đây là những công nghệ đã được Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản I hoàn thiện và chuyển giao thành công, đã được áp dụng có hiệu quả ở nhiều tỉnh thành trong cả nước. Tuy nhiên, đối với tỉnh miền núi Yên Bái, đây là những công nghệ mới nên khi được hỗ trợ ứng dụng trên địa bàn tỉnh đã giúp đội ngũ cán bộ của đơn vị nâng cao năng lực chuyên môn, giúp người dân nắm bắt được những tiến bộ kỹ thuật mới để áp dụng vào sản xuất.
Xây dựng thương hiệu cá sạch hồ Thác Bà
Ông Đào Văn Minh - Công ty CP nghiên cứu ứng dụng dịch vụ khoa học công nghệ T&T, đơn vị tiếp nhận công nghệ và xây dựng các mô hình thuộc dự án - đang sở hữu 55 lồng, mỗi lồng 700m3 gồm đủ loại cá diêu hồng, cá rô, trắm đen, cá chép, cá tầm.
Theo ông Minh, công nghệ nuôi tiên tiến, thể hiện ở thiết kế lồng nuôi, kết cấu lồng, độ bền và vững chắc của lồng, sự tiện lợi cho quá trình thao tác tới kỹ thuật chăm sóc, chọn giống... giúp cá nuôi lớn nhanh, sạch bệnh. Với quy trình nuôi này, cá thương phẩm tại hồ Thác Bà sẽ có chất lượng cao vượt trội so với cá nuôi ao, lồng bè trên sông, đặc biệt là không có mùi bùn. Đơn vị triển khai dự án kỳ vọng điều này sẽ góp phần tạo nên giá trị cho thương hiệu cá Hồ Thác Bà.
Bà Đông cho biết, mô hình chuỗi sản xuất khi đi vào hoạt động ổn định sẽ có hướng mở rộng quy mô và liên kết với người dân, tạo ra một vùng sản xuất thủy sản sạch quy mô lớn, có khả năng đáp ứng nhu cầu lớn của thị trường khu vực Hà Nội.
"Tuy nhiên, để tiêu thụ được sản phẩm ngay trong giai đoạn dự án, chúng tôi có kế hoạch tìm kiếm thị trường bằng hướng làm việc với các hệ thống siêu thị và chợ đầu mối tại Hà Nội nhằm giới thiệu và quảng bá sản phẩm cá Hồ Thác Bà. Để sản phẩm vào được các siêu thị lớn, doanh nghiệp sẽ chủ động mọi thủ tục xin cấp chứng chỉ VietGap. Khi quy mô sản xuất được mở rộng hơn, chất lượng sản phẩm đã được khẳng định (có chứng chỉ VietGAP), thị trường xuất khẩu cũng sẽ được tiếp cận thông qua một số doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản tại miền Bắc" - đại diện đơn vị chủ trì dự án cam kết.
Công ty TNHH TNĐ có trách nhiệm tiêu thụ toàn bộ sản phẩm do mô hình tạo ra và xây dựng, nhân rộng các mô hình vệ tinh trên hồ Thác Bà sau khi dự án triển khai có hiệu quả, tiến tới xây dựng thương hiệu cá sạch Thác Bà đáp ứng được tiêu chuẩn chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm.