Các chương trình sẽ theo hướng đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng tiến bộ KHCN trên tinh thần chấp nhận rủi ro trong khoa học theo thông lệ quốc tế; bảo đảm nguyên tắc công khai, minh bạch, công bằng, tạo điều kiện cho khoán sản phẩm và hậu kiểm, gắn kết với thúc đẩy đổi mới trong doanh nghiệp.

Nhiều điểm mới có tính bước ngoặt

Tại Hội nghị Triển khai Các Chương trình KHCN Quốc gia đến 2030, ngày 17/10/2022, có sự tham dự của Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam, Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt cho biết, Bộ KHCN đã tiến hành cơ cấu lại các chương trình KHCN quốc gia giai đoạn 2021-2025 định hướng đến năm 2030 với nhiều điểm mới:

Việc cơ cấu lại bám sát Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 và quan điểm chỉ đạo về lấy doanh nghiệp làm trung tâm, viện nghiên cứu, trường đại học là các chủ thể nghiên cứu mạnh; chú trọng thu hút nguồn lực xã hội, đặc biệt là từ Quỹ phát triển KHCN của các doanh nghiệp để đầu tư cho hoạt động nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao công nghệ, đổi mới sáng tạo tại doanh nghiệp.

Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng tiến bộ KHCN trên tinh thần chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu khoa học theo thông lệ và chuẩn mực quốc tế; bảo đảm nguyên tắc công khai, minh bạch, công bằng, tạo điều kiện cho khoán sản phẩm và hậu kiểm, gắn kết chặt chẽ với thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp và sản phẩm đầu ra.

Góp phần phát triển tiềm lực KHCN trong trung hạn và dài hạn, phát triển các hướng nghiên cứu cơ bản, các hướng công nghệ ưu tiên, các sản phẩm trọng điểm, chủ lực của đất nước hoặc phục vụ chương trình mục tiêu quốc gia, phải gắn kết với lộ trình công nghệ của các ngành, lĩnh vực, phù hợp với nội dung Chiến lược phát triển KHCN và đổi mới sáng tạo giai đoạn 2021-2030, Phương hướng nhiệm vụ KHCN 5 năm 2021-2025.

Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt phát biểu tại Hội nghị. Ảnh TTTT

Các chương trình KHCN quốc gia bảo đảm không trùng lặp về nội dung nghiên cứu và phân bổ nguồn lực, có sự kết nối, liên thông; có tính ứng dụng cao đối với phát triển kinh tế xã hội, quốc phòng, an ninh, an sinh xã hội, trong phạm vi cả nước, giải quyết các vấn đề KHCN liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, liên vùng.

Mục tiêu, kết quả đạt được của các chương trình góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam tại thị trường trong nước, phát triển ra thị trường quốc tế với các ngành hàng có lợi thế tiềm năng; tăng cường năng lực đổi mới sáng tạo, kết nối giữa các viện nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp, hình thành và phát triển đội ngũ chuyên gia, các nhóm nghiên cứu mạnh, gia tăng số lượng các công bố quốc tế, đăng ký sáng chế, cải thiện chỉ số GII; ưu tiên phát triển các mô hình sinh kế gắn với đặc thù của vùng, địa phương, có hệ thống các giải pháp công nghệ gắn với khai thác tài nguyên và chế biến đặc sản của vùng, miền và gắn với chuỗi giá trị và chuỗi cung ứng toàn cầu.

Những điểm mới về việc tăng thời gian tiến hành các chương trình KH&CN và chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu KH&CN theo thông lệ quốc tế và việc là những thay đổi mang tính táo bạo, đánh dấu bước ngoặt trong thực hiện Chương trình. Việc tăng khung thời gian thực hiện từ 5 năm lên 10 năm là thay đổi lớn về mặt quan điểm đầu tư cho khoa học, đã có những bước ngoặt về định hướng trong 10 năm đủ dài rộng để đưa từ ý tưởng thành công nghệ, có tính kết nối giữa các nhiệm vụ của pha trước với pha sau.

Việc chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu theo thông lệ quốc tế có nghĩa là Chương trình sẽ phải sử đổi hàng loạt các văn bản quản lý nhiệm vụ KH&CN, tháo gỡ các vướng mắc cả về thủ tục phức tạp trong xét duyệt đề tài, thanh quyết toán cho đến xử lý tài sản hình thành từ đề tài để chuyển giao hoặc hoàn trả lại cho nhà nước. Trong đó, ngoài các thủ tục hành chính về thanh quyết toán đã được các nhà khoa học phản ánh trong nhiều năm thì khó khăn phát sinh kể từ 2019 (liên quan tới Nghị định 70/2018/NĐ-CP) là việc xử lý tài sản hình thành từ nhiệm vụ KHCN sử dụng ngân sách nhà nước với quá nhiều khâu (xác định phạm vi tài sản cần trang bị xử lý, cơ chế tính hao mòn/ khấu hao tài sản; thủ tục giao tài sản trang bị không bồi hoàn; định giá tài sản nhưng không có đủ chuyên gia định giá các kết quả nghiên cứu khoa học chưa chuyển giao; thủ tục thương mại hóa...) khiến cả nhà khoa học và các doanh nghiệp rất lúng túng. Thay vì sử dụng nhiều công cụ hành chính, thủ tục tài chính phức tạp thì nhiều năm nay, các nhà khoa học đề nghị sử dụng cơ chế khoán chi đến sản phẩm cuối cùng và hậu kiểm.

Sửa đổi quy định về quản lý tài chính, xử lý tài sản hình thành từ nhiệm vụ KHCN

Vì thế, Bộ KH&CN ưu tiên tháo gỡ các khó khăn này bằng việc phối hợp với Bộ Tài chính để nghiên cứu, ban hành các thông tư của Bộ KH&CN và Thông tư của Bộ Tài chính để sửa đổi, thay thế các thông tư cũ về khoán chi thực hiện nhiệm vụ KHCN; xây dựng dự thảo Nghị định sửa đổi, thay thế Nghị định 70/2018/NĐ-CP.

Đến nay Bộ KHCN đã trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt 16 chương trình KHCN quốc gia, bao gồm 2 chương trình thực hiện dưới hình thức nhiệm vụ KHCN đặc biệt; phê duyệt 17 Chương trình KHCN quốc gia giai đoạn 2021- 2025 và 2021-2030 theo định hướng phát triển các hướng nghiên cứu cơ bản, các hướng công nghệ ưu tiên, các sản phẩm trọng điểm, chủ lực của đất nước. Tổng số 10 nhóm lĩnh vực được định ưu tiên gồm: Khoa học xã hội và nhân văn; Khoa học tự nhiên; Công nghiệp; Nông nghiệp; Y tế; Tài nguyên và môi trường; An ninh, quốc phòng; Nghiên cứu ứng dụng KHCN phục vụ phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, dân tộc, vùng, địa phương; Nghiên cứu công nghệ công nghiệp 4.0, công nghệ cao, công nghệ thông tin phục vụ xây dựng Chính phủ số và đô thị thông minh, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ lưu trữ năng lượng, công nghệ vũ trụ, công nghệ bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn gene; nghiên cứu định hướng đổi mới sáng tạo gắn với doanh nghiệp và thị trường khoa học và công nghệ.

Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam phát biểu tại Hội nghị. Ảnh TTTT

Phát biểu tại Hội nghị, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đánh giá, trong giai đoạn 2016-2020, ngành KHCN, trong đó có các chương trình KHCN quốc gia, đã đóng góp quan trọng vào chỉ số năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP), tốc độ tăng năng suất lao động, tỉ trọng sản phẩm công nghệ cao trong xuất khẩu; đạt được những bước tiến đáng ghi nhận về chỉ số đổi mới sáng tạo, công bố nghiên cứu khoa học quốc tế, sở hữu trí tuệ, tạo dựng hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo tương đối đều khắp…

Ngành KHCN đã triển khai một số chương trình lớn về khoa học xã hội, chính trị, kinh tế, đáng chú ý có một số công trình tiêu biểu, đồ sộ về tầm vóc tri thức và ảnh hưởng đã được thực hiện như Bộ Lịch sử Việt Nam (Quốc sử), Bộ Địa chí quốc gia Việt Nam (Quốc chí), Bách khoa toàn thư Việt Nam…

Bên cạnh đó, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam nêu một số hạn chế, bất cập, vướng mắc mà ngành KHCN cần nhìn nhận thẳng thắn, đầy đủ.

Trước hết, nguồn lực dành cho các chương trình KHCN quốc gia rất lớn (chiếm tới 41,67% nguồn lực kinh phí sự nghiệp KH&CN – PV) nhưng chưa bàn tới mối liên kết có tính định hướng, hướng dẫn, bổ trợ, đỡ đầu đối với các chương trình, nhiệm vụ KHCN các cấp bên dưới.

Bộ KHCN đã có nhiều nỗ lực nhưng vẫn chưa khắc phục triệt để những bất cập, hạn chế, vướng mắc về cơ chế quản lý, tài chính trong khoa học, vẫn còn rất chặt chẽ, chưa sẵn sàng chấp nhận rủi ro ...

Việc công khai, minh bạch, giám sát đồng đẳng các đề tài nghiên cứu khoa học còn ít. Có những chương trình nếu không cùng chuyên môn thì giám sá phản biện không ích gì cả, cần phải có giám sát đồng đẳng từ các nhà nghiên cứu có cùng chuyên môn sâu.

Các sản phẩm công nghệ quốc gia chưa được mở rộng phạm vi đánh giá theo hướng dành cho mọi sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, không phân biệt là sản phẩm của các trường, viện nghiên cứu Nhà nước hay viện nghiên cứu tư nhân, doanh nghiệp; cùng với đó là cơ chế tôn vinh, trao giải thưởng danh dự Nhà nước cho các tác giả, nhóm tác giả có các kết quả nghiên cứu khoa học nổi bật.

Trong thời gian tới, Phó Thủ tướng đề nghị Bộ KHCN khẩn trương triển khai các chương trình KHCN quốc gia giai đoạn 2021-2025, bảo đảm chất lượng, đúng quy định; đồng thời lưu ý một số điểm.

Các chương trình KHCN quốc gia giai đoạn 2021-2025 cần được thực hiện sao cho tối ưu, theo hướng các mục tiêu, nhiệm vụ, kết quả, tiêu chí đánh giá phải được lượng hoá ngày càng rõ ràng, chi tiết; có sự phối hợp với các chương trình, nhiệm vụ KHCN các cấp, bám sát Chiến lược phát triển KHCN và đổi mới sáng tạo giai đoạn 2021-2030.

Minh bạch công khai trong quản lý các đề tài. Cơ chế đánh giá các chương trình KHCN quốc gia cần tiếp tục được hoàn thiện, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin.
Để thực sự đổi mới cơ chế, Bộ KHCN mạnh dạn tổ chức cơ chế khoán cho các nhóm nghiên cứu mạnh trong một số chương trình KHCN quốc gia, học hỏi kinh nghiệm quốc tế, từng bước tháo gỡ cơ chế quản lý tài chính trong khoa học; có các cơ chế để doanh nghiệp tham gia vào các chương trình KHCN quốc gia, phối hợp với các cơ sở nghiên cứu của Nhà nước.

Đối với lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, Phó Thủ tướng lưu ý kết quả các chương trình KHCN quốc gia cần tiếp tục nghiên cứu về phương thức lãnh đạo của Đảng, về thể chế kinh tế, làm sao đưa ra kiến nghị thật cụ thể, lan toả kết quả nghiên cứu, tạo xung lực đổi mới sáng tạo mạnh mẽ hơn trong phát triển đất nước; và lưu ý đẩy mạnh các nghiên cứu về văn hoá.

Việc triển khai các chương trình KHCN QG nói chung, và gần đây nhất là Chương trình KHCN QG trong giai đoạn 2016 – 2020 đã góp phần để hoạt động KHCN có những đóng góp quan trọng dến phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn vừa qua, thể hiện ở một số kết quả cụ thể như sau:

Trong giai đoạn 2016-2020 đã có 39 chương trình KHCN quốc gia được triển khai với tổng kinh phí trên 19.000 tỉ đồng, chiếm 41,67% tổng số kinh phí sự nghiệp KHCN, đạt được một số kết quả cụ thể.

Chỉ số đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng tăng từ 33,6% (giai đoạn 2011-2015) lên 45,2% (giai đoạn 2016-2020). Tốc độ tăng năng suất lao động bình quân giai đoạn 2016-2020 là 5,8%/năm (cao hơn mức 4,3%/năm của giai đoạn 2011-2015).
Tỉ trọng giá trị xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao trong tổng giá trị xuất khẩu hàng hóa tăng từ 19% năm 2010 lên khoảng 50% năm 2020.

Chỉ số đổi mới sáng tạo (GII) của Việt Nam năm 2020 xếp thứ 42/131 quốc gia, dẫn đầu nhóm quốc gia có cùng mức thu nhập và đứng thứ 3 trong ASEAN sau Singapore và Malaysia.
Hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo Việt Nam bắt đầu được hình thành và phát triển. Hiện nay có khoảng hơn 3.000 doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo tại Việt Nam. Số lượng vốn được công bố đầu tư vào các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo liên tiếp tăng trưởng cao (đạt xấp xỉ 1 tỉ USD liên tiếp trong 2 năm gần đây, tăng gấp 3 lần so với năm 2017).

Số lượng bài báo công bố quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn 2016-2020 tăng trung bình 20%. Một số lĩnh vực khoa học tự nhiên như: Toán học, Vật lý, Hóa học tiếp tục giữ thứ hạng cao trong khu vực ASEAN.

Đầu tư cho KHCN từ ngân sách Nhà nước và từ doanh nghiệp đã tương đối cân bằng với tỉ lệ tương ứng là 52% và 48% (so với mức 70-80% từ ngân sách nhà nước vào 10 năm trước). Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã tiên phong trong đầu tư, ứng dụng KHCN.

Trong giai đoạn 2016-2020, tổng số đơn đăng ký bảo hộ sáng chế, giải pháp hữu ích của người nộp đơn là người Việt Nam là 3.882 đơn, gấp 1,2 lần giai đoạn 2011-2015.