Vẫn đang tồn tại khoảng cách rất lớn giữa doanh nghiệp và tổ chức nghiên cứu: chỉ có gần 14% số doanh nghiệp phối hợp với đơn vị bên ngoài để triển khai nghiên cứu đổi mới sáng tạo, đồng thời chỉ có khoảng 1% kết quả nghiên cứu được chuyển giao cho các doanh nghiệp.

Ngày 30/8, Bộ Khoa học và Công nghệ đã phối hợp với Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam VCCI tổ chức sự kiện Diễn đàn Mô hình liên kết thúc đẩy và phát triển thị trường khoa học và công nghệ với sự tham dự của ông Trần Văn Tùng - Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ, và TS Vũ Tiến Lộc - Chủ tịch VCCI.

Tại sự kiện này, TS Vũ Tiến Lộc chia sẻ nhiều con số đáng chú ý về tình hình ứng dụng công nghệ ở các doanh nghiệp Việt Nam và mối quan hệ giữa doanh nghiệp với tổ chức khoa học và công nghệ.

Thứ trưởng Trần Văn Tùng phát biểu tại hội thảo.
Thứ trưởng Trần Văn Tùng phát biểu tại hội thảo.

2/3 số công nghệ của Việt Nam đến từ các nước đang phát triển

TS Vũ Tiến Lộc cho biết, theo kết quả khảo sát của VCCI, trong 7/10 các ngành chế biến, chế tạo ở Việt Nam thì có 60% số doanh nghiệp sử dụng công nghệ có tuổi đời trên 6 năm, 20% số công nghệ có tuổi đời hàng thập kỷ; 2/3 số công nghệ của Việt Nam đến từ các nước đang phát triển, không phải công nghệ nguồn; 1/4 số doanh nghiệp sử dụng công nghệ xuất phát từ Trung Quốc, tỷ lệ các công nghệ xuất phát từ Mỹ, châu Âu, Nhật Bản... chỉ chiếm 1/3.

"Những con số này cho thấy thực trạng công nghệ và trình độ trang bị máy móc thiết bị của các doanh nghiệp trong các ngành chế biến, chế tạo của Việt Nam đã đến lúc phải thay đổi" - TS Lộc nói.

Chỉ khoảng 1% kết quả nghiên cứu được chuyển giao cho doanh nghiệp

Thế nhưng, "có một thực tế là nghiên cứu và phát triển chưa trở thành hoạt động hoặc hướng đầu tư quan trọng của doanh nghiệp. Kết nối giữa doanh nghiệp và các cơ sở nghiên cứu khoa học và công nghệcòn yếu. Các tổ chức, thiết chế trung gian chưa phát triển, vì thế doanh nghiệp Việt Nam chưa thuận lợi trong việc tìm kiếm các công nghệ hay bí quyết họ cần" - TS Vũ Tiến Lộc nhận định.

Một con số đáng chú ý khác được TS Lộc đưa ra là 85% số doanh nghiệp Việt Nam tự thực hiện các hoạt động R&D để có được sản phẩm mới và chỉ gần 14% doanh nghiệp phối hợp với đơn vị bên ngoài để triển khai nghiên cứu đổi mới sáng tạo. Đồng thời, chỉ có khoảng 1% kết quả nghiên cứu được chuyển giao cho các doanh nghiệp. Điều này có nghĩa là, tác động của giới nghiên cứu đối với việc cải thiện công nghệ của doanh nghiệp là vô cùng thấp.

"Vẫn đang tồn tại khoảng cách rất xa giữa việc nghiên cứu của nhà khoa học và thực tiễn của doanh nghiệp. Trong khi doanh nghiệp tự mò mẫm nghiên cứu sáng tạo công nghệ thì các nhà khoa học lại ôm ấp các công trình nghiên cứu mà đầu ra là ngăn kéo" - ông Lộc nói.

Hợp tác 3 bên để chuyển giao tri thức

Nêu ví dụ về mô hình hoạt động hiệu quả liên kết giữa trường/viện nghiên cứu với doanh nghiệp ở Malaysia, TS Vũ Tiến Lộc cho biết, nước này đã có nhiều chính sách thúc đẩy thị trường khoa học và công nghệ. Cụ thể là chương trình chuyển giao tri thức với sự tham gia của 3 nhân tố: doanh nghiệp, các viện trường, và tổ chức trung gian.

Không chỉ vậy, Malaysia còn thành lập nhiều trường đại học có sự tham gia của doanh nghiệp để phục vụ các ngành công nghiệp lớn như trường đại học chuyên về tự động hóa.

Theo TS Lộc, "Trong cơ cấu hợp tác giữa 3 bên, doanh nghiệp cần đóng vai trò trung tâm. Cơ chế liên kết là cơ chế doanh nghiệp, với sự gắn bó về mặt lợi ích. Khi nào, mối quan hệ này chưa tạo ra được lợi ích ở 1 trong 3 chân kiềng đó, thì sẽ không có sự hợp tác và phát triển".

Đồng tình với quan điểm của TS Vũ Tiến Lộc, Thứ trưởng Bộ KH&CN Trần Văn Tùng cũng khẳng định tầm quan trọng của việc phát triển thị trường khoa học và công nghệ, tạo thuận lợi cho các thành phần tham gia các hoạt động thương mại hóa công nghệ, tài sản trí tuệ. Thứ trưởng đặc biệt nhấn vai trò của các mô hình tổ chức trung gian giúp nhà đầu tư dễ dàng tìm kiếm các sáng chế, kết quả nghiên cứu có tiềm năng thương mại hóa thuộc mọi lĩnh vực.