Lần đầu tiên các đề tài thuộc chương trình KC.09 có thể tự chủ nghiên cứu biển sâu, khảo sát khoáng sản trên biển mà không cần sự hỗ trợ của nước ngoài. Đây là một trong những thành công nổi bật nhất của chương trình giai đoạn 2016-2020, tạo tiền đề cho các nghiên cứu về tìm kiếm khoáng sản ở Biển Đông trong thời gian tới.

ff
Thứ trưởng Bộ KH&CN Trần Văn Tùng phát biểu tại Hội nghị.

Đó là nhận định của Thứ trưởng Bộ KH&CN Trần Văn Tùng tại Hội nghị tổng kết chương trình khoa học và công nghệ trọng điểm cấp quốc gia "Nghiên cứu khoa học và công nghệ phục vụ quản lý biển, hải đảo và phát triển kinh tế biển" (KC.09/16-20) diễn ra vào ngày 6/11 vừa qua.

Chương trình KC.09 được triển khai từ năm 2016 với mục tiêu hoàn thiện các luận cứ khoa học về điều kiện tự nhiên, hệ thống chính sách, pháp luật về biển, chính xác hóa ranh giới ngoài của thềm lục địa Việt Nam; nghiên cứu khai thác hợp lý các nguồn lợi, tài nguyên vùng biển và hải đảo; xây dựng các mô hình quy hoạch không gian đới bờ và vùng biển- đảo xa bờ phục vụ phát triển bền vững kinh tế biển và bảo vệ môi trường; nghiên cứu các trường địa động lực nội sinh và ngoại sinh, các dạng tai biến thiên nhiên trong mối quan hệ với bối cảnh biến đổi khí hậu cực đoan ở vùng biển Việt Nam.

Chia sẻ tại Hội nghị, GS.TSKH Phạm Hoàng Hải, Chủ nhiệm Chương trình, cho biết sau 5 năm thực hiện, Chương trình đã có 36/41 đề tài được nghiệm thu, trong đó có 7 đề tài được Hội đồng nghiệm thu cấp Nhà nước đánh giá xếp loại xuất sắc. Nhìn chung, 41 đề tài của Chương trình bước đầu khẳng định sự hiện diện của lực lượng khoa học công nghệ trên Biển Đông”. Cụ thể, “Chương trình đã nghiên cứu thành công giải pháp công nghệ đê trụ rỗng và mặt cắt đê biển có cấu kiện tiêu sóng trên đỉnh; xây dựng được một mô hình ứng dụng công nghệ tiêu tán, hấp thụ, giảm năng lượng sóng, chống xói lở bờ biển phía Đông đồng bằng sông Cửu Long (tại Nhà Mát, Bạc Liêu) và mô hình ứng dụng công nghệ tiêu tán hấp thụ, giảm năng lượng sóng, chống xói lở bờ biển phía Tây đồng bằng sông Cửu Long (Bắc Đá Bạc - Cà Mau)”.

Đáng chú ý, GS.TS Trần Tân Tiến (Trường Đại học Khoa học Tự nhiên - ĐHQGHN) và các cộng sự đã nghiên cứu thành công sự hình thành, phát triển, di chuyển của xoáy thuận nhiệt đới trên biển Đông hạn ba ngày, đạt được các sản phẩm dự báo thời tiết chi tiết hơn những dự báo hiện có, công nghệ dự báo tiệm cận với các công nghệ tiên tiến trên thế giới.

Bên cạnh những kết quả mang tính chất dự báo và bảo vệ khu vực bờ biển, các đề tài trong Chương trình đã hoàn thiện hơn 10 sản phẩm hữu ích được ứng dụng tại các địa phương ven biển và đảo ven bờ. Có thể kể đến hai mô hình nuôi trồng rong biển có giá trị kinh tế cao, thực hiện trên hai đảo huyện ven bờ (Lý Sơn và Phú Quý), sản xuất được 10.000 kg rong nho tươi và rong sụn tươi; các bộ mô hình dự báo khí tượng thủy văn và môi trường biển, được áp dụng thử nghiệm tại Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn Quốc gia, Đài Khí tượng Thủy văn khu vực Trung Trung Bộ; sản xuất thử nghiệm thành công hơn 300 kg chế phẩm sinh học từ hàu, cá và rong đạt tiêu chuẩn của Bộ Y tế…

Đánh giá cao kết quả của Chương trình nhưng Thứ trưởng Bộ KH&CN Trần Văn Tùng cũng lưu ý đến tính kết nối với khối doanh nghiệp, vì thời gian qua “sự phối hợp giữa các đề tài và doanh nghiệp vẫn còn có phần hạn chế”. Dù các nghiên cứu đã bắt đầu đi vào đời sống, nhưng “giai đoạn tới, ban quản lý đề tài sẽ cần tập trung vào việc kết nối với doanh nghiệp, nghiên cứu thị trường, phương án sản xuất kinh doanh, khi đó Chương trình sẽ thực sự đi vào thực tiễn đời sống chứ không chỉ dừng lại là những nghiên cứu, thử nghiệm”, Thứ trưởng Trần Văn Tùng nói.