Theo ông Andrey Stankevich - đại diện Rosatom tại Việt Nam - cho biết không có trở ngại nào cho việc xây dựng một nhà máy điện hạt nhân theo phiên bản này ở Việt Nam. AES-2006 là thế hệ lò phản ứng hiện đại nhất.
Việt Nam có thể chọn công nghệ AES-2006 theo phương án St. Peterburg thiết kế cho nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và
Rosatom cũng đã trình báo cáo nghiên cứu khả thi (F/S). Giả định phía Việt Nam sớm quyết định thời điểm xây
nhà máy điện hạt nhân đầu tiên, theo ông với tiến độ chuẩn bị như hiện nay, có
kịp để năm 2019 đổ mẻ bêtông đầu tiên?
Thực
ra về tiến độ những bước đầu tiên của dự án Nhà máy Điện hạt nhân Ninh Thuận 1,
hai bên (chủ đầu tư EVN và Tổng Công ty ASEViệt Nam - thuộc Tập đoàn Năng lượng hạt
nhânNga - Rosatom) đã thống nhất trong một thoả
thuận khung hồi cuối tháng 7/2015. Tiến độ các bước đầu tiên phụ thuộc rất nhiều
vào việc thẩm định và phê duyệt F/S của nhà máy.
Hiện nay, tài liệu khả thi đã được các cơ quan chức
năng của Việt Nam tổ chức thẩm định ở cấp bộ và hội đồng thẩm định cấp nhà nước.
Hi vọng trong 6 tháng đầu năm 2016 sẽ hoàn thành việc thẩm định và Chính phủ Việt
Nam sẽ phê duyệt khả thi. Điều này rất quan trọng, bởi sau đấy chủ đầu tư và tổng
thầu sẽ ký một hợp đồng liên quan đến thiết kế kỹ thuật của nhà máy theo phiên
bản đã chọn trong khả thi. Việc thiết kế kỹ thuật sẽ tiến hành trong khoảng
1,5-2 năm, tuỳ thuộc vào khối lượng công việc. Cùng với đó, hai bên sẽ cùng chuẩn
bị hồ sơ xin phép sử dụng. Việc này theo kinh nghiệm quốc tế cũng chiếm khoảng
1,5-2 năm. Như vậy, nếu cuối năm 2016 hai bên ký hợp đồng thiết kế kỹ thuật thì
2018-2019 là hai năm chúng ta phải dành cho việc thiết kế kỹ thuật và xin giấy phép xây dựng - ở
đây là cho phép đổ mẻ bêtông đầu tiên vào nền móng của nhà máy điện hạt nhân.
Theo tiến trình này, cuối năm 2019, chúng ta có khả năng tiến hành đổ mẻ bêtông
đầu tiên.
Theo
ông, sự khác biệt giữa công nghệ AES 2006 với AES 91 - loại đã xây ở Trung Quốc
là gì?
AES 2006 với lò phản ứng V491 là sự phát triển của
phiên bản thiết kế AES 91 từng xây dựng tại
Trung Quốc. Ở phiên bản AES 2006, công suất được cải tiến, nâng lên 100-120MW.
Tất nhiên, lò, bình sinh hơi, các máy bơm tuần hoàn, tuabin… đều đã được cải tiến
cho phù hợp với công suất mới. Một tiến bộ nữa ở các hệ thống an toàn của phiên
bản 2006 là lò V491 được mở rộng hơn, nâng cấp hơn, phong phú hơn, kết hợp nhiều
hệ thống dựa trên nguyên tắc thụ động cũng như nguyên tắc chủ động. Do vậy, nếu
nhà máy điện hạt nhân với phiên bản thiết kế là AES 91 được đánh giá là thế hệ
3 thì phiên bản thiết kế 2006 theo tiêu chuẩn đánh giá của thế giới là thế hệ
3+ và đấy là lò phản ứng hiện đại nhất.
Công
nghệ hiện đại phải phù hợp với điều kiện thực tế. Theo ông, điều kiện khí hậu,
thổ nhưỡng của Việt Nam sẽ tác động như thế nào đến vận hành AES 2006?
Không có trở ngại nào cho việc xây một nhà máy điện
hạt nhân theo phiên bản thiết kế 2006 ở Việt Nam, xét về mọi mặt. Khí hậu nhiệt
đới ở Việt Nam có phần khắc nghiệt hơn so với khí hậu ôn hoà ở Nga, song tác động
không đáng kể đến công suất phát điện của nhà máy. Cạnh đó, thiết bị của Nhà
máy Điện hạt nhân Ninh Thuận 1 được chế tạo theo các tiêu chuẩn phù hợp điều kiện
khí hậu nhiệt đới nên cũng không ảnh hưởng đến giá cả thiết bị.
Trong khuôn khổ dự án Ninh Thuận 1, các công
trình cơ bản sẽ chủ yếu sử dụng các nguyên vật liệu của Việt Nam như ximăng, gạch,
cát, thép xây dựng… Do đó, với phần xây dựng cơ bản, chúng tôi sẽ mời các đơn vị
xây dựng của Việt Nam làm phụ thầu. Họ có đủ kinh nghiệm, nhân lực, máy móc thiết
bị để thực hiện dự án này.
Trong
điều kiện của Việt Nam, việc áp dụng công nghệ AES 2006, nếu tính tỷ lệ phải
chi phí thêm hoặc giảm hiệu quả như ông vừa nói, sẽ tác động như thế nào đến
giá thành của nhà máy ?
Tất nhiên có những tác động mạnh từ nhiều yếu tố
đến giá thành của nhà máy. Giá thành của nhà máy còn phụ thuộc vào thời điểm
chúng ta bắt đầu xây dựng, bởi vì việc mua sắm thiết bị cho nhà máy điện hạt
nhân phải đi trước 1-2 năm trước khi xây dựng. Công việc xây dựng cũng diễn ra
trong 5-6 năm chứ không phải vài tháng. Cho nên, tại thời điểm đó, tỷ giá giữa
VNĐ với USD Mỹ và giữa USD Mỹ với đồng rúp của Nga cũng thay đổi.
Để lường trước điều này, trong quá trình thiết kế
kỹ thuật, chúng tôi đã dự kiến tổng chi phí của nhà máy. Nó được xây dựng dựa
trên cơ sở khối lượng công việc, vật chất phải được sử dụng vào những giá điển
hình tại lúc đang xây dựng nhà máy. Nó cho phép chúng ta thấy được bức tranh về
tổng chi phí của một nhà máy.
Theo
đánh giá của cá nhân ông, việc lựa chọn phiên bản này Việt Nam được hưởng lợi
gì?
Khi lựa chọn một phiên bản mới nhất, lợi ích trước
tiên chúng ta thấy là ở phiên bản này mức độ an toàn cao hơn nhiều so với phiên
bản thế hệ trước. Đấy là lợi ích “vô hình” nhưng phải có để chúng ta yên tâm
trong việc vận hành. Thứ hai, công suất của nhà máy này lớn hơn 5-10% so với
phiên bản cũ. Thứ ba, một lợi ích cũng tương đối vô hình đó là sự trao đổi kinh
nghiệm giữa các nhà máy sử dụng phiên bản 2006. Do vậy, kinh nghiệm vận hành sẽ
tập trung không chỉ ở Việt Nam mà còn ở các nhà máy khác nữa. Bên cạnh đó,
chúng ta cũng có ưu thế mua sắm các phụ tùng thay thế.