Các điểm “trú ngụ” của dơi, khu vực thu nhặt phân dơi và các trang trại chăn nuôi lợn ở khoảng cách gần nhau, cộng hưởng với sự đa dạng của các chủng virus corona (CoV) đang lưu hành cho thấy nguy cơ lây lan virus corona giữa dơi, lợn và người ở mức cao.
Một Sức khỏe (One Health) là cách tiếp cận tích hợp, thống nhất nhằm cân bằng một cách bền vững và tối ưu giữa sức khỏe con người, sức khỏe động vật và sức khỏe của hệ sinh thái. Chìa khóa của phương pháp này là việc ghi nhận sức khỏe của con người, vật nuôi, động vật hoang dã và môi trường đều có mối liên hệ với nhau.
Nghiên cứu mới do Hiệp hội Bảo tồn Động vật Hoang dã (Wildlife Conservation Society - WCS) tiến hành đã xác định khu vực có các chuồng dựng lên làm nơi trú ngụ cho dơi và các điểm thu nhặt phân dơi ở rất gần với các trang trại chăn nuôi lợn là điểm nóng có nguy cơ làm lây truyền virus ở Việt Nam.
Cụ thể, nhóm nghiên cứu - gồm các chuyên gia thuộc lĩnh vực thú y, sức khỏe cộng đồng và môi trường - đã đến Quảng Ninh, Đồng Tháp, Đồng Nai, Sóc Trăng và Lạng Sơn để thu thập hơn 1.600 mẫu sinh phẩm từ động vật và từ người tại khu vực thu nhặt phân dơi, điểm trú ngụ tự nhiên của dơi và trang trại chăn nuôi lợn để tiến hành xét nghiệm sàng lọc với nhiều loại virus khác nhau. Trong đó, nhóm tìm thấy virus corona tồn tại trên dơi tại các khu vực có sự tiếp xúc giữa người và động vật. Virus này có mối liên hệ mật thiết về mặt di truyền với nguồn gốc của mầm bệnh gây bệnh trên lợn, có khả năng đã có sự lây truyền virus giữa các trang trại chăn nuôi lợn. Như vậy, các điểm trú ngụ của dơi, khu vực thu nhặt phân dơi và các trang trại chăn nuôi lợn ở khoảng cách gần nhau, cộng hưởng với sự đa dạng của các chủng virus corona đang lưu hành cho thấy nguy cơ lây lan virus corona giữa dơi, lợn và người ở mức cao.
Tuy nhiên, nghiên cứu vẫn chưa xác định được chính xác mức độ và khả năng lây lan dịch bệnh giữa các loài động vật bởi chưa đánh giá được đầy đủ các đặc tính và khả năng “vượt rào” của các loại virus này trong việc lây truyền giữa các loài khác nhau.
Các mẫu sinh phẩm thu thập trên người cũng được xét nghiệm để tìm kháng thể với 8 nhóm virus - trong đó có virus corona, virus cúm, virus filo... Vì số lượng mẫu nhỏ nên các xét nghiệm chưa phát hiện được bất cứ virus nào từ dơi đang lưu hành trong cộng đồng người dân sống gần hang dơi và nơi thu nhặt phân dơi. Nhưng khi tiến hành một số các xét nghiệm chuyên sâu khác, kết quả xét nghiệm cho thấy có thể một số người dân sống tại các khu vực kể trên đã từng tiếp xúc với virus Marburg, virus sốt xuất huyết Crimean-Congo và một số virus khác - tuy nhiên những virus này không liên quan đến dơi trong khu vực.
Các chuyên gia khuyến cáo, nếu không thể dừng công việc thu nhặt phân dơi làm phân bón, những người tham gia thu thập phân dơi cần sử dụng phương tiện phòng hộ cá nhân (PPE) đầy đủ.
Người dân ở Đông Nam Á thu nhặt phân dơi làm phân bón tự nhiên cho cây trồng. Thông thường, họ vào hang động, thu gom phân dơi trên trần hang bằng tay không và thường xuyên đi qua đống phân dơi với đôi chân trần. Ở Việt Nam và Campuchia, phân dơi còn được thu thập dưới các chuồng dơi nhân tạo có đế bê tông và các cột phủ lá dứa. Những chuồng nhân tạo này thường nằm gần nơi ở của con người, nơi chăn nuôi gia súc và cây trồng.
“Nghiên cứu này cho thấy những nguy cơ của hoạt động thu nhặt phân dơi tới sức khỏe cộng đồng, và nguy cơ lây lan virus từ động vật hoang dã sang động vật nuôi thông thường và cuối cùng là sang con người. Việc tiến hành giám sát và phát hiện sớm các điểm nóng lây truyền virus là chìa khóa để ngăn chặn các đại dịch có thể xảy ra trong tương lai”, bà Hoàng Bích Thủy, Giám đốc Quốc gia, Tổ chức WCS - Chương trình Việt Nam, đồng tác giả của bài nghiên cứu, cho biết.
Bên cạnh đó, các chuyên gia cũng cho rằng cần thực hiện đánh giá tác động của việc thu nhặt phân dơi đối với công tác bảo tồn dơi cũng như nguy cơ đánh mất vai trò quan trọng của loài dơi đối với hệ sinh thái. Dơi đóng vai trò là loài thụ phấn hoa và ăn các động vật chân đốt mang mầm bệnh (như côn trùng), sâu bọ gây hại cho nông nghiệp, đồng thời đóng vai trò quan trọng đối với sức khỏe con người, động vật và hệ sinh thái.
Nghiên cứu này là một trong những nỗ lực đầu tiên nhằm triển khai giám sát Một Sức khỏe tại Việt Nam - quốc gia nằm trong khu vực được coi là một trong những điểm nóng toàn cầu về các bệnh truyền nhiễm mới nổi.
Các tác giả chỉ ra sự cần thiết phải tích hợp kiến thức chuyên môn về động vật hoang dã vào kế hoạch giám sát dịch bệnh theo tiếp cận Một Sức khỏe trong tương lai.
Các kết quả nghiên cứu đã
được công bố trên số mới nhất của tạp chí
Viruses.