Thứ làm nên chiến thắng của quân Đồng minh ở Thái Bình Dương không chỉ là chiến lược, bản lĩnh và sức mạnh quân sự; mà còn nhờ một nhà khoa học hàng hải xuất sắc từ Massachusetts.

Trong trận Tarawa ở quần đảo Gilbert vào tháng 11/1943, một trong những cuộc đổ bộ quan trọng của cuộc chiến, Hải quân Hoa Kỳ đã giành được chiến thắng trước quân Nhật, nhưng với cái giá vô cùng thảm khốc khi hơn 1.000 lính thiệt mạng trong cuộc giao tranh và hơn 2.000 người bị thương. Con số thương vong, đặc biệt ở giai đoạn quan trọng này trong cuộc chiến ở Thái Bình dương, buộc các chỉ huy cấp cao phải tìm hiểu một câu hỏi: Chính xác chuyện đã sai ở đâu?
Ảnh: Viện hải dương học Woods Hole.

Có rất nhiều sơ suất cần được xét kỹ trong đó có một sai lầm lớn là các nhà hoạch định chiến dịch đã dựa vào các hải đồ lỗi thời và ký ức thiếu sót của các sĩ quan nước ngoài, do đó mà tính sai thủy triều.

Do vậy, những người trong tiểu ban hải dương học mới của Khí tượng học thuộc Ủy ban mới Tham mưu trưởng Liên quân mới - và đặc biệt là nhà sinh vật biển non trẻ tên Mary Sears đã trợ giúp Hoa Kỳ và quân đồng minh hiểu rõ hơn về đại dương, góp phần vào chiến thắng ở Thái Bình Dương.
Tàu Hải quân Hoa Kỳ Mary Sears có chuyến đi đầu tiên vào ngày 19/10 năm 2000.
Ảnh: Viện Hải dương học Woods Hole

Là con cả trong gia đình có 6 người con, Mary Sears sinh ngày 18/7/1905, tại Wayland, Massachusetts, cách Boston 18 dặm về phía Tây. Thời thơ ấu êm đềm của bà bị phá vỡ khi mẹ bà đột ngột ốm và qua đời vào năm 1911. Quá đau lòng, cha bà đã đến châu Âu, bỏ lại những đứa con thơ cho gia đình, họ hàng và bạn bè chăm sóc.

Vận mệnh của Sears bắt đầu khởi sắc vào năm 1915, khi bà đăng ký vào Trường Winsor có tỷ lệ cạnh tranh cao ở Boston. Sau đó, vào năm 1923, Sears vào Đại học Radcliffe, nơi bà tìm thấy những người thầy đỡ đầu - và một con đường nghiên cứu mới. Quan trọng nhất, bà đã đăng ký tham gia các lớp của nhà động vật học nổi tiếng George Howard Parker.

Bà lấy được bằng cử nhân sinh học năm 1927 và bằng thạc sĩ vào năm 1929. Bigelow, người có công thành lập Viện Hải dương học Woods Hole (WHOI), trở thành giám đốc đầu tiên vào năm 1930. Vào năm 1933, sau khi hoàn thành bằng tiến sĩ về động vật học, Sears bắt đầu làm việc cho Bigelow quanh năm. Còn Bigelow đảm bảo cho người cộng sự trẻ tuổi gặp gỡ các nhà khoa học lỗi lạc trên khắp thế giới, tạo dựng những mối liên hệ mà bà sẽ duy trì trong toàn bộ sự nghiệp của mình.

Tuy nhiên, Sears không được phép đi lên tàu nghiên cứu chính của tổ chức, chiếc Atlantis, vì bà là phụ nữ. Từ xa xưa các tàu thương mại hoặc tàu quân sự không hoan nghênh phụ nữ lên tàu, vì định kiến cho rằng phụ nữ sẽ khiến các thuyền viên nam giới mất tập trung và kích động cơn thịnh nộ của biển cả.

Cơ hội ra khơi của Sears cuối cùng đã đến vào năm 1941, khi nhà điểu học William Vogt nhờ bà phân tích lý do tại sao những con chim ở Peru ăn cá cơm từ đại dương lại chết hàng loạt. Sears đến Peru, tại đây bà đi thuyền quanh Vịnh Pisco và xa hơn trong sáu tháng trên một tàu đánh cá với nam thủy thủ đoàn. Khi ở trên biển, bà biết tin nước nhà tham chiến sau cuộc tấn công vào Trân Châu Cảng, hoàn cảnh đó khiến chuyến thám hiểm của bà gặp nhiều rủi ro hơn. Tuy nhiên, bà vẫn ở lại để hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu.

Sau khi hồi hương và quay lại phòng thí nghiệm vào tháng 3/1942, Sears tham gia một nhóm nghiên cứu về con hàu và thảm thực vật tích tụ trên vỏ tàu. Tình trạng tích tụ gia tăng lực cản và giảm hiệu suất nhiên liệu từ 10% trở lên trong các chuyến đi dài. Đối với tàu thuyền trong thời chiến, nơi cả tốc độ lẫn nhiên liệu đều là thứ hàng hóa quý giá, thì giải pháp cho vấn đề tích tụ dưới đáy sẽ mang lại lợi ích đáng kể. Sears đã biên soạn một bản danh mục phong phú về các sinh vật biển gây tích tụ dưới đáy, bản báo cáo này giúp chính phủ tiết kiệm hàng triệu đô.

Vào cuối năm 1942, Sears đăng ký gia nhập Lực lượng Nữ hải quân dự bị mới thành lập (WAVES), nhưng không vượt qua vòng khám sức khỏe và bị từ chối do được chẩn đoán trước là mắc bệnh viêm khớp. Sears không có vấn đề về sức khỏe; bà tập thể dục thường xuyên và là một ứng cử viên xuất sắc. Suýt thì Sears đã mắc kẹt ở WHOI suốt thời chiến, nếu không nhờ sự can thiệp của Trung úy Roger Revelle, một nhà hải dương học từ Viện Hải dương học Scripps ở San Diego.

Revelle đã đến Woods Hole và thuyết phục giám đốc WHOI Columbus O’Donnell Iselin cho phép một trong những nhà khoa học quý giá tới phục vụ tại Văn phòng Thủy văn Hải quân (“Hydro”). Có duy nhất một nhà khoa học mà Iselin sẵn sàng từ bỏ, vì cho rằng không cần thiết đối với nghiên cứu cấp bách thời chiến đang diễn ra trong lòng thí nghiệm, người đó là Mary Sears.

Sau chuyến thăm tuyển dụng của Revelle, Sears lại đăng ký làm sĩ quan trong Lực lượng Nữ hải quân dự bị, nhưng để được nhận thì bà phải được miễn trừ y tế. Đô đốc George S. Bryan, cán bộ phụ trách Hydro, cũng là ủy viên quản trị của WHOI vô cùng hiểu rõ chuyên môn và lòng tận tâm của Sears. Đô đốc biết bà quen thuộc với các dự án nghiên cứu liên quan đến chiến tranh đang diễn ra, bao gồm cả việc phát triển nhiệt ký nước sâu, một công cụ giúp tàu hải quân né tránh và tấn công kẻ thù. Ông cho rằng Sears là cầu nối giữa Hydro và WHOI, giúp phân tích những thông tin quan trọng sẽ ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc chiến dưới biển. Vì thế, Bryan đã gửi đề xuất tiến cử Sears. Vào ngày 21/1/1943, Sears nhận được sự miễn trừ đã chờ đợi từ lâu - và một cơ hội để phục vụ đất nước.

Bà theo học Trường Hải quân dự bị tại Mount Holyoke ở Nam Hadley, Massachusetts, một trong hai địa điểm duy nhất đào tạo phụ nữ trở thành sĩ quan hải quân. Sears tốt nghiệp vào tháng 4/1943 và bắt đầu công tác tại Hydro, một mình làm việc tại Bộ phận An ninh Hàng hải, đối mặt với dồn dập các yêu cầu cung cấp dữ liệu từ Quân đội và Hải quân.

Đáng tiếc, các hải đồ và hướng dẫn hàng hải nếu có thì cũng đã quá lỗi thời, có những ấn phẩm đã hơn 100 năm tuổi - ngay cả với những mục tiêu xâm lược được đặt lên hàng đầu. Có những loại dữ liệu không hề dễ thu thập do các hoạt động chiến tranh đã ngăn Hoa Kỳ khảo sát một số khu vực. Phần lớn dữ liệu này (ví dụ: thủy triều địa phương, dòng chảy hoặc điều kiện bãi biển ở những địa phương xa xôi) không dễ dàng tiếp cận, nhất là với những khu vực ở Thái Bình Dương, nơi Hoa Kỳ chưa từng tham chiến. Tuy mới đảm nhận vai trò này, nhưng bà thấy rằng Hải quân cần một người có thể nhanh chóng đánh giá thông tin đã có sẵn trong các thư viện và cơ quan chính phủ, đồng thời xác định cần thu thập thêm những gì.

Vào tháng 4/1943, khi vừa gia nhập Tiểu ban Hải dương học của Tham mưu trưởng Liên quân, Sears đã nhận yêu cầu từ các đồng nghiệp là biên soạn tất cả các tài liệu có sẵn về tình trạng trôi dạt của các vật thể trên bề mặt Đại Tây Dương và Thái Bình Dương. Yêu cầu được đưa ra sau sự cố nghiêm trọng của Đại úy Eddie Rickenbacker, một phi công cự phách trong Thế chiến thứ nhất. Rickenbacker đang làm nhiệm vụ cho Bộ Chiến tranh thì máy bay rơi ở Thái Bình Dương. Vào ngày 20, viên phi công mới được tàu tuần tra của hải quân vớt lên khi đang bám vào bè. Câu hỏi dai dẳng là tại sao mất tới ba tuần để cứu được những người sống sót, khi mà kiểm soát không lưu đã cung cấp cho Hải quân vị trí gần đúng với nơi Rickenbacker gặp tai nạn.

Dự đoán tình trạng trôi dạt của các vật thể như mảnh vỡ máy bay là một vấn đề phức tạp. Sears dồn hết tâm sức để giải quyết nhiệm vụ này, thu thập tất cả dữ liệu đã công bố có thể tìm thấy và dựa vào mạng lưới các chuyên gia của mình tại Woods Hole và Scripps để tìm hiểu thêm. Vào tháng 5/1943, Sears đã đệ trình Tình trạng trôi dạt của các vật thể do sự kết hợp giữa gió và dòng chảy cho các thành viên tiểu ban. Họ tán thành kết luận của bà mà không hề do dự, và chuyển chuyên khảo này lên hệ thống điều lệnh. Báo cáo của bà đã đặt nền tảng cho những sáng kiến giúp giải cứu hàng trăm phi công và phi hành đoàn mất tích trên biển trong chiến tranh - và dập tắt mọi mối hoài nghi còn tồn tại về khả năng của nhà nữ hải dương học này.

Trong cuộc sống đời thường, Chace đã dành hầu hết thời gian để giải phẫu và phác thảo các loài giáp xác trong hầm mộ của Bảo tàng Động vật học So sánh Harvard. Dora Henry của Đại học Washington, hay còn được gọi là “Quý cô Hàu”, đã lùng sục các vũng thủy triều và các bãi cạn xung quanh Puget Sound và bắt đầu thu thập một bộ sưu tập phong phú các loài hàu; bà nổi danh đến mức nhà văn John Steinbeck còn gửi tặng những con hàu mà ông nghĩ bà sẽ thích. Trong khi đó, Mary Grier, một thủ thư của Đại học Washington với kiến thức sâu rộng về các công bố hải dương học, đã bị cáo buộc là có quan hệ với Đảng Cộng sản. Tuy đội ngũ này bất thường là thế, nhưng Hải quân không có thời gian mà kén chọn. Một loạt các nhiệm vụ đổ bộ mạo hiểm đã được đưa vào kế hoạch chiến tranh.

Vào tháng 7/1943, Sears bắt đầu chuẩn bị các chương hải dương học trong một loạt các báo cáo Nghiên cứu Tình báo Hải quân Liên hợp (JANIS). Các Tham mưu trưởng liên quân sẽ sử dụng các nghiên cứu này để đưa ra các quyết định quan trọng về mọi giai đoạn của cuộc chiến, nghiên cứu tuyệt mật này sẽ là ưu tiên hàng đầu của Đơn vị Hải dương học.

Để bao hàm tất cả 33 chủ đề hải dương học cần thiết cho một khu vực mất rất nhiều nỗ lực để tích lũy dữ liệu, chưa kể phải phân tích và chuyển nó thành các thuật ngữ đơn giản cho các nhà hoạch định chiến tranh hiểu được. Khối lượng công việc lớn cũng thời hạn cấp bách đã khiến đội ngũ của Sears quá tải, nhưng họ hiểu rằng nếu các báo cáo đáp ứng được mục tiêu, Hải quân sẽ tránh được vô số hiểm họa trên biển, cứu sống vô số người.

Thế nhưng, tình trạng gấp gáp của chiến dịch tấn công Tarawa khiến cho bản báo cáo JANIS chuyên sâu mà Sears cùng đồng đội đang bắt đầu thực hiện không được sử dụng. Chưa kể tới chuyện Cơ quan tình báo quân đội không ưu tiên chiến dịch Thái Bình Dương, mà yêu cầu các nhà hải dương học phân tích Bulgaria làm chủ đề cho báo cáo JANIS đầu tiên.

Thiếu phân tích hải dương toàn diện, Thủy quân lục chiến buộc phải dựa vào các thông tin ngắt quãng ở Tarawa. Những ước tính về thủy triều, những phỏng đoán đơn thuần được đưa ra dựa trên trí nhớ và tin đồn thất thiệt, đã khiến thuyền đổ bộ bị mắc kẹt trên rạn san hô của hòn đảo. Thủy quân lục chiến không còn lựa chọn nào khác ngoài việc rời tàu và lội vào bờ qua làn đạn của đối phương.

Trận chiến đẫm máu đó đáng lẽ đã không xảy ra nếu sử dụng báo cáo JANIS của nhóm Sears. Vì bản báo cáo đã đặc biệt lưu ý tới những lo ngại về mực nước thấp, cùng lưu ý sự kết hợp giữa rạn san hô cản trở và một thảm họa thủy triều xuống thấp nguy hiểm có thể dẫn đến thảm họa như thế nào.

Trận Tawara đã làm thay đổi các ưu tiên đối với nghiên cứu JANIS của nhóm. Nhóm của bà phải thu thập mọi thông tin tình báo hải dương học và chuẩn bị từ trước báo cáo cho mọi chiến dịch. Nhưng do soạn thảo từ trước nên các báo cáo JANIS không thể bao gồm mọi tình huống bất thường. Do vậy, nhóm Hydro thường phải trả lời các câu hỏi chớp nhoáng. Thường thì những câu hỏi này nảy sinh sau những cuộc gặp giữa Tổng thống Mỹ Roosevelt và Thủ tướng Anh Churchill để vạch ra các kế hoạch chiến tranh mới. Đôi khi, có những vấn đề tuyệt mật tới nỗi chỉ Sears mới được tin tưởng giao phó và một mình thực hiện. Tuy có những lúc phải mệt mỏi trắng đêm làm việc, nhưng bà chưa từng gây ra sai sót nào.

Kinh nghiệm hải dương học của Sears còn hỗ trợ cuộc chiến theo những cách khác. Một trong những lo ngại của Hải quân Hoa Kỳ là tàu ngầm Đức, vốn nổi danh trong Thế chiến Thứ nhất khi gần như làm tê liệt các đường dây liên lạc của Anh, cũng như gián đoạn đường tiếp tế lương thực và thuốc men. Thế hệ tàu ngầm mới của Đức còn chính xác và nguy hiểm hơn bao giờ hết khi cải tiến chiến thuật là tấn công trên mặt nước vào ban đêm và nhóm tàu ngầm hợp tác mở rộng phạm vi tìm kiếm và tối đa hóa các cuộc tấn công.

Để tìm ra nơi ẩn nấp của tàu ngầm, Hải quân cần xác định các lớp dị biệt nhiệt, mà để biết được điều này thì cần dữ liệu về nhiệt độ của nước biển ở các độ sâu khác nhau. Và một công cụ hữu ích giúp Hải quân thu thập được điều này là nhiệt ký nước sâu, được hoàn thiện nhờ các nhà khoa học đồng nghiệp của Sears tại WHOI. Công cụ này đã được trang bị không chỉ cho tàu hải quân mà cả tàu tuần duyên và tàu buôn. Cuối cùng, ngay cả tàu ngầm cũng được trang bị công cụ đã sửa đổi này. Suốt cuộc chiến, Sears đã thu thập và tập trung dữ liệu nhiệt ký nước sâu từ WHOI và Scripps, đảm bảo độ chính xác và phổ biến nó cho hạm đội tàu ngầm. Nhờ thế mà tàu ngầm Hoa Kỳ có thể xác định vị trí các lớp dị biệt nhiệt trong thời gian thực, tối đa hóa hệ thống định vị dưới mặt nước để trốn tránh kẻ thù. Bà còn biên soạn các ấn phẩm như Bổ sung cho tàu ngầm của Hải quân với hướng dẫn hàng hải, trong đó nêu ra những điều kiện thủy văn có thể ảnh hưởng đến hoạt động của tàu ngầm. Những nỗ lực không ngừng nghỉ của Sears đã giúp Hải quân chiến thắng ở mặt trận Thái Bình Dương.

Bà giải ngũ vào ngày 4/6/1946, Sears tiếp tục các nghiên cứu riêng, đồng thời đảm nhận vai trò tổ chức cho lĩnh vực hải dương học hiện đại non trẻ. Năm 1953, Sears trở thành đồng biên tập viên sáng lập ra tạp chí hàng đầu về hải dương học Deep Sea Research. Bà cũng điều phối Đại hội Hải dương học Quốc tế đầu tiên ở New York vào năm 1959. Khi đảm nhận những trách nhiệm này, Sears đã giúp tổ chức một cộng đồng nghiên cứu lỏng lẻo thành một lĩnh vực khoa học gắn kết và được công nhận. Vào năm 1975, Sears đã xuất bản các tệp thẻ mục lục toàn diện thành 15 tập, minh chứng cho kiến thức vô song của bà về đại dương.

Năm 1997, khi bà qua đời ở tuổi 92 và để ghi nhận những công lao to lớn của Sears, tên bà đã được dùng để đặt cho tàu khảo sát hải dương học. Vào ngày 19/10/2000, tàu USNS Mary Sears được hạ thủy.

Nguồng: smithsonianmag.com