Bởi vậy không xuất hiện tổn thương bộ phận sinh dục không phải là bằng chứng đồng thuận hay bằng chứng bác bỏ hành vi xâm nhập tình dục không đồng thuận - theo một nghiên cứu mới.
Nhóm thực hiện nghiên cứu gồm các nhà nghiên cứu và chuyên gia từ Đại học Birmingham và Cơ quan y tế quốc gia Anh ở Glasgow, Liverpool và Bristol. Nghiên cứu được công bố trên tạp chí
eClinicalMedicine.
Họ đã phân tích các nghiên cứu y khoa được công bố trong 30 năm qua để so sánh tổn thương bộ phận sinh dục ở phụ nữ bị cưỡng hiếp với những người có quan hệ tình dục đồng thuận.
Khi kiểm tra dữ liệu từ hơn 3.000 phụ nữ, họ phát hiện hơn một nửa số nạn nhân không có các tổn thương có thể phát hiện được, kể cả khi các chuyên gia sử dụng thuốc nhuộm pháp y và kỹ thuật phóng đại trong lúc khám nghiệm. Trong khi đó, tổn thương bộ phận sinh dục có thể xuất hiện ở 30% số phụ nữ quan hệ đồng thuận.
Đồng tác giả - Tiến sĩ David Naumann từ Đại học Birmingham - cho biết, phụ nữ có thể không tố cáo vụ việc bị cưỡng hiếp vì niềm tin sai lầm rằng họ không thể chứng minh mình bị tấn công nếu không có tổn thương nào ở vùng sinh dục. "Sự xuất hiện hay không xuất hiện những tổn thương ở bộ phận sinh dục cũng có thể ảnh hưởng tới cách lực lượng thực thi pháp luật và bồi thẩm đoàn tiếp nhận cáo buộc”.
“Nghiên cứu của chúng tôi cung cấp bằng chứng quyết định rằng việc không có tổn thương không thể được sử dụng trước tòa để suy luận rằng vụ cưỡng hiếp đã không xảy ra và nạn nhân đang ‘bịa chuyện’ được," Naumann nói và bày tỏ hy vọng phát hiện mới sẽ đem lại sức mạnh cho nạn nhân để họ báo cáo vụ tấn công, đưa kẻ thủ ác ra trước công lý. Không xuất hiện tổn thương bộ phận sinh dục không phải là bằng chứng đồng thuận hay bằng chứng bác bỏ hành vi xâm nhập tình dục.”
Đánh giá có hệ thống này chứng minh rằng mặc dù mặc dù tổn thương bộ phận sinh dục có nhiều khả năng xảy ra ở phụ nữ bị tấn công tình dục hơn so với phụ nữ có quan hệ tình dục đồng thuận (48% so với 31%), cả hai nhóm đều có thể có tổn thương bộ phận sinh dục phát hiện được hoặc không có tổn thương.
Theo số liệu của chính phủ Anh, trong năm 2019-2020, chỉ 4% hành động tấn công tình dục và 2% hành động cưỡng hiếp bịbuộc tội hoặc triệu tập trong cùng năm.
Cảnh sát ghi nhận một tỷ lệ đáng kể những vụ việc này đã khép lại với kết quả là "có khó khăn về bằng chứng" nên nạn nhân rút lui khỏi việc kiện tụng.
Vô số niềm tin sai lầm đã củng cố thái độ văn hóa đối với việc tố cáo bạo lực tình dục. Một trong số đó cho rằng tổn thương phải là một phần không thể tránh khỏi đối với việc cưỡng hiếp, Tiến sĩ Naumann nói thêm. Nhưng trên thực tế, những kẻ lạm dụng tình dục có thể sử dụng các chiến thuật khác nhau, chẳng hạn như đe đọa dùng bạo lực, để làm giảm khả năng xảy ra tổn thương bộ phận sinh dục.
“Nếu chúng ta mong muốn hỗ trợ nạn nhân của những sự vụ như vậy, cộng đồng lâm sàng phải gửi đi thông điệp rõ ràng, dựa trên bằng chứng để đảm bảo rằng những hiểu sai về tình dục phải được loại bỏ hoàn toàn. Điều này sẽ giúp các nạn nhân thêm tin tưởng rằng hệ thống tư pháp hình sự sẽ hỗ trợ họ trong việc báo cáo hành vi bạo lực tình dục,” ông nói.
Nguồn: