Một hạ tầng chất lượng quốc gia tốt không chỉ đảm bảo an toàn và sức khỏe cho người dân mà còn tạo thuận lợi thương mại, giảm tác động môi trường và góp phần đạt được nhiều mục tiêu phát triển bền vững quan trọng khác.

Cuối tháng chín, nhiều người dân đã được một phen “tá hỏa” khi thông tin về rau đội lốt đạt tiêu chuẩn VietGap trong nhiều chuỗi siêu thị được báo chí phanh phui. Dù bán với giá cao gấp nhiều lần rau chợ, song các túi rau này không hề đến từ nguồn rau hữu cơ Đà Lạt như ghi trên nhãn mác mà được các công ty lấy từ chợ đầu mối (không có giấy tờ chứng nhận đạt chuẩn) và sơ chế một cách qua loa. Sự việc này không chỉ khiến người tiêu dùng mất niềm tin mà còn khiến họ gặp nhiều nguy cơ về sức khỏe khi phải ăn vào những loại rau không rõ nguồn gốc.

Ảnh: Vinamilk.

Nhưng không phải đến sự kiện này mà hàng loạt các vụ việc về vi phạm an toàn thực phẩm diễn ra suốt nhiều năm qua ở Việt Nam nói riêng và trên thế giới nói chung đã cho thấy tầm quan trọng của việc phải có một hạ tầng chất lượng quốc gia hoạt động hiệu quả. “Đây không chỉ là vấn đề cấp thiết lên quan đến sức khỏe của người dân mà còn là vấn đề tạo thuận lợi thương mại và bảo vệ môi trường”, ông Kees R. Jonkheer - Chuyên gia quốc tế về Chiến lược Tiêu chuẩn hóa Quốc gia của Dự án Tạo thuận lợi Thương mại USAID TPF - cho biết tại hội thảo “Kinh nghiệm quốc tế về Chiến lược tiêu chuẩn hóa quốc gia và hạ tầng chất lượng quốc gia và kiến nghị cho Việt Nam”.

Trong khi vấn đề quản lý hàng hóa trong nước còn nhiều hạn chế thì theo các chuyên gia của dự án USAID TPF, những bất cập trong thủ tục thông quan cũng lại đang cản trở Việt Nam cải thiện sức cạnh tranh thương mại. Vậy cụ thể hạ tầng chất lượng quốc gia của Việt Nam còn có những điểm hạn chế gì và chúng ta có thể làm gì để khắc phục?

Chồng chéo và thiếu liên kết

Theo định nghĩa của Chương trình Chỉ số Hạ tầng Chất lượng Toàn cầu (GQII), hạ tầng chất lượng là “hệ thống quốc tế về đo lường, tiêu chuẩn hóa, công nhận và các dịch vụ liên quan đến chất lượng (thử nghiệm, hiệu chuẩn, giám định, kiểm định, đào tạo và nâng cao nhận thức) tạo niềm tin trong thương mại quốc tế và góp phần bảo vệ người tiêu dùng và môi trường.” Nói cách khác, hạ tầng chất lượng là một hệ thống bao gồm các tổ chức (công và tư) cùng với các chính sách, khuôn khổ chính sách và pháp lý liên quan, và các thông lệ cần thiết để hỗ trợ và nâng cao chất lượng, an toàn và tính bền vững về môi trường của hàng hóa, dịch vụ và quy trình.

Nếu xét theo GQII, chỉ số hạ tầng chất lượng nói chung của Việt Nam năm 2020 là 54, và điểm số của các tiểu mục về tiêu chuẩn, đo lường và công nhận lần lượt là 64, 60 và 36. “Vấn đề mà chúng tôi thấy ở Việt Nam là các bộ, ngành hoạt động rời rạc, thiếu sự phối hợp hiệu quả. Bản thân cơ chế hiện nay cũng chưa thực sự khuyến khích sự phối hợp giữa các bộ quản lý chuyên ngành”, ông Kees đánh giá. “Khi thực hiện các cuộc phỏng vấn trong dự án, chúng tôi có thể thấy sự chồng chéo trong công tác quản lý của các cơ quan nhà nước với doanh nghiệp”. Ông dẫn ví dụ, doanh nghiệp có thể sẽ phải làm việc với rất nhiều bộ ngành khác nhau và khi sản phẩm của họ được công nhận bởi Văn phòng Công nhận Chất lượng (BOA) thì đôi khi kết quả đó lại không được công nhận bởi một cơ quan quản lý nhà nước.

Chưa kể đến, hiện nay Việt Nam đang có đến 12 danh mục hàng hóa nhóm 2 (sản phẩm, hàng hóa được quản lý theo quy chuẩn kỹ thuật) thuộc diện kiểm tra chuyên ngành, có thể gây nên sự trùng lắp, thiếu nhất quán. Cục Hải quan Lạng Sơn - đơn vị giữ vị trí quan trọng trong việc lưu thông hàng hóa của Việt Nam và nước ngoài - cũng đã từng chỉ ra sự thiếu đồng bộ tương tự. Theo phản ánh trên báo Hải Quan Online, điều 70 của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa quy định: bộ quản lý ngành, lĩnh vực thực hiện quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hóa theo lĩnh vực được phân công và phải ban hành danh mục sản phẩm hàng hóa. Tuy nhiên, cho đến nay, trong danh mục ban hành, nhiều mặt hàng vẫn không có mã số HS (mã số dùng để phân loại hàng hóa) dẫn đến khó khăn cho cơ quan thực thi trong việc xác định chính xác hàng hóa, tên gọi danh mục… Thậm chí, một sản phẩm hàng hóa có thể thuộc nhiều danh mục khác nhau và bị quản lý bởi nhiều cơ quan quản lý chuyên ngành, dẫn đến việc chồng chéo trong công tác quản lý và thực hiện.

Sự bất cập này còn được thể hiện ở việc hạ tầng chất lượng ở Việt Nam hiện nay được tiếp cận theo hướng nhà nước dẫn dắt thay vì thị trường dẫn dắt. “Chẳng hạn với một dòng sản phẩm, các cơ quan quản lý nhà nước lại có những yêu cầu khác nhau liên quan đến sản phẩm. Điều này dẫn đến việc một sản phẩm phải mang đến phòng thí nghiệm nhiều lần, mỗi lần lại để kiểm tra hoặc thử nghiệm một nội dung theo yêu cầu của một Bộ quản lý riêng lẻ”, ông Kees phân tích. Kết quả là các phòng thí nghiệm hiện nay đang phải chịu quá nhiều vấn đề về quy định, yêu cầu công nhận từ các bộ ngành, khiến cho việc thử nghiệm phải lặp lại nhiều lần và phải thực hiện rất nhiều đánh giá.

Đáng chú ý, hoạt động thử nghiệm hiện nay ở nước ta cũng còn điểm hạn chế. Một số vấn đề phải kể đến là: nhiều cơ sở thử nghiệm chưa đạt chất lượng; thiếu năng lực thử nghiệm; thiếu nhân sự có năng lực. Thêm vào đó, kết quả thử nghiệm cũng không đồng nhất, không phải chỉ giữa các phòng thử nghiệm với nhau mà còn có thể thấy ngay cả khi so sánh với quốc tế.

Học gì từ kinh nghiệm quốc tế?

Nếu nhìn vào Chỉ số Hạ tầng Chất lượng Toàn cầu (GQII), có thể thấy số điểm của Việt Nam ở dưới nhiều quốc gia như Trung Quốc (2), Nhật Bản (5), Hàn Quốc (6), Ấn Độ (10), Indonesia (26), Singapore (31), Malaysia (40),... “Phiên bản GQII 2020 cho thấy rõ mối tương quan chặt chẽ giữa phát triển kinh tế và hạ tầng chất lượng (QI). Không chỉ QI phát triển hơn ở các nền kinh tế tích hợp nhiều tri thức hơn trong các sản phẩm xuất khẩu, mà các nền kinh tế này cũng chiếm phần lớn thương mại xuất khẩu của thế giới”, dự thảo báo cáo so sánh kinh nghiệm quốc tế của dự án USAID TPF chỉ ra. “Hạ tầng chất lượng càng phát triển thì năng lực xuất khẩu càng cao và giá trị gia tăng của các sản phẩm và dịch vụ này về mặt tri thức càng cao”.

Và để hạ tầng chất lượng phát triển hơn, ông Kees khuyến nghị, Việt Nam cần thành lập một hội đồng hạ tầng chất lượng liên bộ, do Thủ tướng Chính phủ làm chủ tịch và do Văn phòng Chính phủ quản lý về mặt hành chính, để giải quyết sự thiếu liên kết giữa các bộ, ngành. Nhiệm vụ của hội đồng này là giúp hướng dẫn, điều phối và sắp xếp hợp lý các hoạt động QI, các yêu cầu và chức năng được giao, đặc biệt từ các bộ ngành đối với các bên cung cấp dịch vụ QI (như tổ chức đánh giá sự phù hợp, giám định, thử nghiệm, phòng thí nghiệm,...). Từ kinh nghiệm của Pháp, Mỹ, Hàn Quốc, Trung Quốc, chuyên gia này cũng đề xuất việc thiết lập một cơ quan công nhận bao quát chung thay vì ba cơ quan riêng rẽ cùng phụ trách vấn đề công nhận như hiện nay.

Bên cạnh đó, Việt Nam cần thống nhất 12 danh mục hàng hóa nhóm 2 thành một danh mục toàn diện duy nhất, đồng thời tổng hợp các yêu cầu về hạ tầng chất lượng kèm theo để đảm bảo cách hiểu thống nhất về các điều khoản và mô tả hàng hóa, từ đó loại bỏ sự mâu thuẫn.. “Danh mục này phải do Thủ tướng Chính phủ ban hành và Văn phòng Chính phủ quản lý”, ông Kees nói. Đồng thời, cần thay đổi cách tiếp cận hạ tầng chất lượng sang hướng tiếp cận dựa trên dịch vụ người dùng hoặc dựa trên khách hàng thông qua cách tiếp cận tập trung vào sản phẩm. Với một dòng sản phẩm, các cơ quan quản lý nhà nước khác nhau sẽ cần liệt kê toàn bộ các yêu cầu liên quan đến sản phẩm đó để “thay vì phải thử nghiệm nhiều lần như trước đây, một sản phẩm sẽ chỉ cần thử nghiệm toàn diện tất cả các yêu cầu trong một lần”.
Tuy nhiên, muốn làm được như vậy thì các phòng thí nghiệm cũng cần phải có chất lượng đồng đều. Và Hàn Quốc là một ví dụ có thể học hỏi khi quốc gia này đã áp dụng chính sách cân bằng khu vực và đề xuất chín chiến lược chính trong ba lĩnh vực trọng tâm là con người, không gian và công nghiệp để thúc đẩy sự phát triển của các vùng, tránh xa lực lượng kinh tế chi phối của khu vực thủ đô Seoul. “Điều này rất thú vị bởi ở Việt Nam thì các thành phố lớn có các phòng thí nghiệm kiểm định rất tốt, nhưng khi đến các khu vực có điều kiện khó khăn hơn thì ta sẽ thấy ngay sự mất cân bằng trong mức độ phát triển của hạ tầng chất lượng quốc gia”, ông nói. “Điều đáng chú ý ở đây là Hàn Quốc đã kết nối kế hoạch hỗ trợ hạ tầng chất lượng của họ với Chính sách Cân bằng Khu vực, nâng cao chất lượng sản xuất và dịch vụ trên toàn quốc”. Từ góc nhìn về việc kết nối chính sách về hạ tầng chất lượng với các chính sách phát triển như vậy, chuyên gia này đánh giá cao Quyết định số 569/QĐ-TTg về “Chiến lược phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đến năm 2030” mới đây của Việt Nam do đây là lần đầu tiên thuật ngữ về hạ tầng chất lượng quốc gia được đưa vào một văn bản quan trọng.

Những góp ý này có lẽ rất đáng chú ý trong bối cảnh Tổng cục TCĐLCL cũng đang đề xuất trình Thủ tướng Đề án Phát triển Hạ tầng Chất lượng Quốc gia, trong đó sẽ đặt lộ trình tiêu chuẩn 5-10 năm cho các lĩnh vực và tiếp cận theo hướng xã hội hóa nhiều hơn. Đây cũng là điều các chuyên gia quốc tế khuyến nghị dựa trên kinh nghiệm của các nước. “Việc xây dựng các tiêu chuẩn ở Việt Nam hiện chủ yếu là việc của nhà nước”, ông Kees nói, “Chương trình khuyến khích sự tham gia của doanh nghiệp vào việc xây dựng tiêu chuẩn sắp kết thúc, do đó chúng tôi đề xuất nên mở rộng chương trình này và kéo dài thêm ít nhất 10 năm nữa”.