Một nghiên cứu mới xuất bản trên tạp chí Communications Earth & Environment đã cho thấy, cần phải thành lập các khu bảo tồn rừng mang tính chiến lược để giảm thiểu biến đổi khí hậu và bảo vệ đa dạng sinh học.

Nhà sinh thái học Bev Law thuộc Đại học Tiểu bang Oregon và các đồng nghiệp cho rằng, biến đổi khí hậu và sự đa dạng sinh học có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, do đó việc thiết lập các khu bảo tồn rừng mang tính chiến lược sẽ có thể giúp giải quyết cả hai vấn đề cấp bách này, đồng thời thúc đẩy việc bảo vệ tài nguyên nước.Trong bài báo mới xuất bản trên Communications Earth & Environment, nhóm nghiên cứu đã phân tích trường hợp cụ thể ở Mỹ và đưa ra một khung hướng dẫn để thành lập các khu bảo tồn như vậy.

“Các nhà hoạch định chính sách thường nói cần phải bảo vệ rừng ở các nước đang phát triển”, Law nói. “Tuy nhiên, rất ít người chú ý đến mối liên hệ giữa mật độ carbon cao và sự đa dạng sinh học cao ở các khu rừng thuộc khu vực ôn đới, cũng như tầm quan trọng của chúng đối với việc giảm thiểu và thích ứng với biến đổi khí hậu”.

Các khu bảo tồn rừng mang tính chiến lược có thể giúp giảm thiểu biến đổi khí hậu và bảo vệ đa dạng sinh học. Ảnh: Pixabay/CC0 Public Domain
Các khu bảo tồn rừng mang tính chiến lược có thể giúp giảm thiểu biến đổi khí hậu và bảo vệ đa dạng sinh học. Ảnh: Pixabay/CC0 Public Domain

Nhóm nghiên cứu cũng nhấn mạnh một thực tế, nhiều quốc gia đã cam kết đáp ứng các mục tiêu 30x30 (bảo vệ 30% diện tích đất và nước trên toàn cầu vào năm 2030) và 50x50 (bảo vệ 50% vào năm 2050), trong đó việc đạt được mục tiêu 50x50 là điều cần thiết để đảm bảo sự đa dạng sinh học của Trái đất.

Để thực hiện nghiên cứu, các nhà khoa học đã tiến hành kiểm kê đối với các vùng đất bảo tồn ở 11 bang: Washington, Oregon, Idaho, California, Nevada, Arizona, New Mexico, Utah, Colorado, Wyoming và Montana.

Trong đó, GAP 1 - theo định nghĩa của Cơ quan Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ - chỉ các khu đất bảo tồn vĩnh viễn như các khu vực hoang dã và công viên quốc gia, nơi các biến động tự nhiên như hỏa hoạn có thể xảy ra mà không bị can thiệp. Còn GAP 2 là khu vực mà các hoạt động hoặc việc sử dụng đất làm suy giảm chất lượng của các cộng đồng tự nhiên, chẳng hạn như xây dựng đường, hoặc các biện pháp ngăn chặn các biến động tự nhiên được cho phép áp dụng.

Sau khi phân tích, các nhà khoa học phát hiện ra, 8% trong tổng diện tích đất của khu vực nghiên cứu được bảo vệ theo mức GAP 1, và 5% diện tích khác được bảo vệ ở mức GAP 2.

Các khu vực bảo tồn vĩnh viễn tương đương với các khu vực hoang dã chiếm trung bình 14% diện tích rừng ở các bang được nghiên cứu. Theo Law, việc bảo vệ rừng ở mức độ tương đương với các vùng hoang dã là biện pháp tốt nhất cho đa dạng sinh học, do đó ở trên toàn khu vực, vùng bảo tồn ở cấp độ này sẽ cần tăng 16% để đạt được mục tiêu bảo vệ diện tích rừng vào năm 2030, và 36% để đạt được mục tiêu năm 2050.

“Chúng ta đang đẩy hệ sinh thái đến bên bờ không còn khả năng phục hồi nữa, trừ khi chúng ta tiến hành các biện pháp mạnh mẽ để giảm khí nhà kính trong bầu khí quyển cũng như bảo vệ động vật, thực vật và các ‘bể chứa’ carbon tự nhiên”, Law nói.

Để bảo vệ 30% diện tích rừng ở miền Tây vào năm 2030, các nhà nghiên cứu đã sử dụng một khung phân tích có khả năng áp dụng ở nhiều khu vực khác nhau, nhằm xác định các khu vực có thể đóng vai trò là khu bảo tồn khí hậu chiến lược.

Khung phân tích này giúp xếp hạng các ưu tiên bảo tồn thông qua việc sử dụng các thước đo không gian về đa dạng sinh học, trữ lượng và khả năng tích lũy carbon dưới tác động của biến đổi khí hậu và khả năng xảy ra hạn hán hoặc cháy rừng.

Theo Law, nhiều vùng đất rừng của liên bang có thể được bảo vệ theo mức GAP 2 đơn giản bằng cách loại bỏ dần việc chăn thả, khai thác, đồng thời tăng các quy định hành chính.

"Các khu bảo tồn rừng mang tính chiến lược có thể được thiết lập trên các vùng đất của liên bang thông qua sắc lệnh, quy định và hoạch định chính sách. Đây có thể là một biện pháp có chi phí thấp để đồng thời đáp ứng các mục giảm thiểu biến đổi khí hậu và bảo vệ đa dạng sinh học", Law nói. “Đối với các vùng đất của tư nhân và bộ lạc, việc áp dụng các biện pháp khuyến khích, bảo tồn tự nguyện cũng như mua lại thị trường một cách công bằng cũng mang lại cơ hội đáng kể trong việc tăng khả năng lưu trữ carbon và bảo vệ đa dạng sinh học".

Nguồn: