Chính từ những số liệu của các cô gái đếm bom và nhờ các chiến sĩ lặn, mò tìm, tháo các quả thủy lôi, quy luật đánh phá của các thủy lôi ngày càng được làm sáng tỏ. Chúng được định giờ và cài đặt tùy theo cái được gọi là “chữ ký của tàu”. Bởi vì trên thực tế chiến trường, chúng ta thấy bom hay thủy lôi từ tính có khi chỉ nổ khi gặp phải đúng một loại đối tượng nhất định.
Nếu con người dùng chữ ký (signature) để ghi dấu sự hiện diện bản thân mình thì con tàu trong cuộc đời hoạt động của nó cũng để lại những dấu ấn nhất định mà ngôn ngữ ngày nay gọi chung đó là những chữ ký. Chúng ta biết rằng, nhiều người đã dành thời gian tìm hiểu chữ ký để đoán tính cách con người, xuyên qua từ những chữ ký bay bướm tới chân phương, những chữ ký thanh thẳng tự nhiên của người đàng hoàng hay run rẩy rời rạc của người không dứt khoát… Do chữ ký cũng thể hiện cá tính, nét riêng của mỗi người nên thật dễ hiểu khi dùng chữ ký để ấn định cho từng con tàu, trong đó nổi bật nhất là chữ ký âm học (acoustic signature) và tiếp đến là chữ ký từ tính (magnetic signature) mà các khoa học quân sự hải quân phải nghiên cứu kỹ lưỡng trong các cuộc chiến tranh hiện đại.
Hình 2.3:Thiết bị PĐ 67-3.
HÌnh 2.4: Thiết bị đặt trên xuồng gỗ nhỏ.
Trong chiến tranh tại Việt Nam, các loại bom và thủy lôi mà người Mỹ sử dụng hầu hết đều thuộc loại sử dụng chữ ký từ tính. Bởi vậy, từ những năm 1967, chưa bao giờ mà những khái niệm về khoa học điện từ như từ trường, từ thông, cảm ứng từ, tiêu từ… hay những đơn vị như ampe, volt, milioersted... lại được anh em kỹ thuật làm công tác chống phong tỏa lại nhắc tới nhiều như vậy. Tại các trường đại học trong những năm đó, cuốn sách được mọi người tìm đến là cuốn Vật lý lý thuyết của hai nhà khoa học Xô viết gốc Do Thái Lev Landau và Evgeny Lifshitz.
Hình2.5: PĐ-67-3 được sản xuất hàng loạt 50 chiếc và thư tay của Thứ trưởng Nguyễn Lưu thúc giục gửi cho Thái Bình.
Về bản chất, từ trường của một con tàu (hình 2.2), bắt đầu mạnh dần lên từ mũi tàu và mạnh nhất tại nơi có nhiều sắt thép như thượng tầng, buồng máy… rồi kết thúc tại đuôi tàu. Để đánh phá tàu, mạch gây nổ của thủy lôi được lập trình để nhận biết chữ ký này và gây nổ. Do đó, các thiết bị rà phá thủy lôi phải tạo được xung từ gần giống với chữ ký từ mà thủy lôi đã lập trình, tức là tạo “một con tàu ảo” từ tính để gây nổ, phá thủy lôi. Ngày nay, với sự hỗ trợ của nhiều công cụ hiện đại, công việc này có vẻ như không quá khó nhưng vào thời điểm đó, đây là chuyện không dễ dàng. Tuy nhiên với nỗ lực của đội ngũ cán bộ khi đó đã chế tạo ra hàng loạt thiết bị phóng xung từ để phá lôi. Ngoài các khung dây chạy pin, còn có HDL-9 tức là viết tắt các chữ Hải quân Diệt Lôi ra đời tháng 9/1967 của xưởng X46, HT-5 tức Hải quân Từ trường tháng 5/1968, tiếp theo là HT-6, CBC tức Công Binh Cảng. Trung Quốc cũng gửi sang các thiết bị T 480 được lắp trên các tàu rà phá lôi có tên Thanh Niên, TV-03, của Bảo đảm Hàng hải.
Cuộc thử nghiệm đầu tiên
Rút kinh nghiệm của thiết bị đầu tiên, Tổ nghiên cứu rút kinh nghiệm cho các sản phẩm sau là PĐ - 67 - 02 và PĐ - 67 - 03. Thiết bị này bao gồm một ống dây có lõi từ bằng sắt CT 3 (với PĐ - 67 - 02) và bằng tôn silic (với PĐ - 67 - 03. Bình ac quy 12V - 128 Ah. Bộ tự động tạo xung để kích nổ thủy lôi.
Thiết bị PĐ - 67 - 03 được thiết kế gọn nhẹ (hình 2.3), đủ để đặt trọn trên một xuồng gỗ nhỏ (hình 2.4) và ngay khi thử nghiệm đã phá ngay được ba quả thủy lôi ở cửa Lạch Giang. Do đó, có lệnh cho phép sản xuất một loạt 50 chiếc để cung cấp cho các đơn vị trong và ngoài ngành đường biển (hình 2.5). Các chiến sĩ phá lôi đã sử dụng thiết bị này theo nhiều cách như kéo dây dọc hai bờ sông, thả trôi, kéo theo xuồng phá lôi...
Ngày nay, mỗi khi đi qua khu công nghiệp Thịnh Long Nam Định sầm uất tới một địa điểm mang tên Phà Gót Tràng trên đường ra cửa Lạch Giang của con sông Ninh Cơ, có mấy ai biết rằng tại đây đã tiến hành cuộc thử nghiệm đầu tiên của thiết bị phá lôi phiên bản thứ ba PĐ-67-3. Người chủ trì thiết kế là kỹ sư Nguyễn Ngọc Linh tốt nghiệp điện khóa ba Đại học Bách khoa, lúc đó 31 tuổi, vừa lập gia đình được vài ngày. Trong nhóm thiết kế cùng đi thử nghiệm còn có kỹ sư đóng tàu Trần Công Chánh, miền Nam tập kết, sống độc thân. Hai kỹ sư “giành” nhau bước xuống chiếc thuyền gỗ chuẩn bị mang thiết bị đi thử nghiệm. Chánh quyết giành bằng được vị trí này vì “nếu có sao, tôi chỉ có một mình, còn Linh vừa lập gia đình, tội quá!”. Nhưng Linh trên vị trí chủ trì, muốn tận mắt thấy thiết bị hoạt động trên hiện trường. Thử nghiệm với bom đạn, hai kỹ sư giành nhau đi vào chiến đấu với tử thần. Thật may là cuộc thí nghiệm đã thành công ngoài mong đợi. Ba quả lôi nổ liên tiếp trên đường con thuyền tiến dần ra Biển Đông.
Có lẽ, một nhiệm vụ đầy gian nan và hiểm nguy đã diễn ra trong thế cận kề với cái chết như thế, không phải lúc nào cũng thuận lợi. Tổ nghiên cứu của Đường biển cũng đã có người hy sinh trên vị trí công tác, như trường hợp của kỹ sư điện Lê Nghinh người Bình Định, tốt nghiệp Đại học Gdansk Ba Lan vào ngày 16/04/1972, khi máy bay Mỹ phóng tên lửa trúng trụ sở Cục Đường biển. Nhưng thật ra những mất mát, hiểm nguy của các cán bộ nghiên cứu ở tuyến sau đâu bằng những người Đường biển đang trực tiếp chiến đấu: người đếm bom, người mò lặn đưa bom về nghiên cứu và đặc biệt là những đội sử dụng các thiết bị đã nghiên cứu chế tạo đi rà phá trên khắp các địa bàn với những cái tên thân thương: Ngã Ba Quả Xoài, cửa Lục, cửa Sót…
Chiến công mà họ lập nên thật quá đỗi khác thường. Mỗi khi nhắc lại, Cục trưởng Lê Văn Kỳ đều tự hào vì đã có cả một đội ngũ cán bộ từ kỹ sư tới những người thợ tài năng và nhiệt huyết, trong một “tổ hợp khoa học kỹ thuật khép kín” có khả năng hoàn thành những nhiệm vụ mà đất nước giao cho.
(Còn tiếp)
(1) Tài liệu Operation End Sweep –A history of Mine sweeping Operation in North Vietnam ,edited by Edward J.Marolda ,128 trang do Naval Historical Center Department of the Navy Washington xuất bản năm 1993 trang 58