Một trong số đó là loài đặc hữu của miền Nam Việt Nam và được đặt tên theo từ “ma cà rồng” trong tiếng Việt.

Các nhà khoa học đã xác định được năm loài nhím lông mềm mới từ Đông Nam Á, hai trong số đó hoàn toàn mới đối với khoa học và ba loài còn lại được các nhà nghiên cứu nâng lên từ cấp độ phân loài. Đây là kết quả từ phân tích DNA cũng như quan sát chi tiết đặc điểm vật lý của nhím.

Nghiên cứu mới, công bố trên Tạp chí Động vật học của Hiệp hội Linnean, đã phân tích các mẫu vật và mẫu mô được thu thập từ nghiên cứu thực địa và từ các bộ sưu tập của bảo tàng có niên đại hàng thập kỷ. Trước đây, chỉ có hai loài nhím lông mềm được biết đến, giờ đây tổng số đã tăng lên bảy. Động vật có vú là nhóm ít khi phát hiện ra loài mới.

Một số loài nhím lông mềm mới được phát hiện. Nguồn ảnh:David Awcock

“Mọi người có thể ngạc nhiên khi biết rằng vẫn còn những loài động vật có vú chưa được khám phá ngoài kia. Có rất nhiều điều chúng ta chưa biết – đặc biệt là những loài động vật nhỏ sống về đêm với ngoại hình khó có thể phân biệt được với nhau", Arlo Hinckley - tác giả chính của nghiên cứu và nghiên cứu sinh sau tiến sĩ tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Quốc gia Smithsonian và Đại học Seville, nói.

Nhím lông mềm là động vật có vú nhỏ thuộc họ nhím, có mõm dài, nhọn và nhiều lông thay vì gai. Các nhà khoa học đã ví vẻ ngoài của chúng giống như sự kết hợp giữa chuột và chuột chù. Chúng hoạt động cả ngày lẫn đêm và được cho là ăn côn trùng, động vật không xương sống khác cũng như trái cây.

Một trong hai loài mới hoàn toàn có răng nanh đặc biệt dài được đặt tên là H. macarong, theo từ ma cà rồng trong tiếng Việt. Nó có thân dài khoảng 14 cm, bộ lông màu nâu sẫm và là loài đặc hữu của miền Nam Việt Nam.

Loài mới hoàn toàn còn lại, H. vorax, nhỏ hơn một chút, dài 12cm, bộ lông màu nâu sẫm, đuôi đen và mõm rất hẹp. Nó được đặt tên theo mô tả của nhà nghiên cứu động vật có vú Frederick Ulmer, người trong chuyến thăm Sumatra năm 1939 đã mô tả nó là loài háu ăn. Loài này chỉ có ở núi Leuser ở Bắc Sumatra.

Trong quá trình nghiên cứu, các nhà khoa học đã thu thập 232 mẫu vật để quan sát và 85 mẫu mô để phân tích di truyền, được thu thập từ thực địa và từ 14 bộ sưu tập lịch sử tự nhiên trên khắp Châu Á, Châu Âu và Hoa Kỳ.

Nguồn: