Nếu não bạn thuộc dạng này, bạn sẽ dễ thành công hơn người khác khi thực hiện các công việc đơn giản.
Tổ chức não giống trường đại học
Bộ não được tổ chức thành các mạng con hoặc môđun khác nhau, hỗ trợ các chức năng riêng biệt cho các nhiệm vụ khác nhau, chẳng hạn như nói, ghi nhớ và thể hiện cảm xúc.
Các nhà khoa học tại Đại học Rice (Mỹ) đã tiến hành nghiên cứu để làm rõ việc môđun bộ não là cao hay thấp cũng như mức độ mà các môđun liên lạc với nhau tác động đến hiệu suất của các nhiệm vụ đơn giản và phức tạp ra sao.
Giáo sư Simon Fischer-Baum - một tác giả của nghiên cứu - cho biết: "Hãy nghĩ về trí não của bạn như nghĩ về một trường đại học. Các cá nhân tự hòa nhập vào các cộng đồng như ký túc xá và đội thể thao, mặc dù mỗi người trong những nhóm này cũng có mối quan hệ với những người ngoài nhóm. Các vùng não đều được tổ chức thành những cộng đồng mà các vùng trong đó có nhiều mối liên hệ với nhau, ít kết nối với các khu vực bên ngoài; nhưng bộ não của mỗi người mỗi khác.
Một số người có bộ não tốt hơn với cấu trúc cộng đồng nghiêm ngặt (hoặc môđun cao hơn) trong khi những người khác có bộ não không có cấu trúc cộng đồng nghiêm ngặt (hoặc môđun thấp hơn)".
Trong suốt quá trình nghiên cứu, môđun não được đo theo thang điểm từ 0 đến 1; trong đó 0 đại diện cho môđun thấp - tức mọi vùng của não có khả năng giao tiếp với bất kỳ vùng nào khác, một đại diện cho môđun cao - bộ não được chia thành các cộng đồng mà thành viên chỉ giao tiếp với nhau.
52 người tham gia thử nghiệm (gồm 16 nam, 36 nữ trong độ tuổi từ 18-26) đã được chụp ảnh cộng hưởng từ chức năng (fMRI) - một quá trình đo hoạt động thần kinh não bằng cách phát hiện những thay đổi liên quan đến mức ôxy trong máu. Hoạt động thần kinh của mỗi người tham gia được đo bởi fMRI trong 21 phút khi họ nghỉ ngơi; nếu tăng và giảm ở hai vùng cùng một lúc nghĩa là hai vùng này đã được nối kết. Bằng cách đó, các nhà nghiên cứu xác định được mức độ liên lạc với nhau giữa các cộng đồng vùng não.
Sau đó, những người tham gia phải thực hiện các nhiệm vụ phức tạp để kiểm tra bộ nhớ như làm các phép tính số học đơn giản, hoặc các nhiệm vụ dễ dàng như phát hiện một dấu mũi tên chỉ đến mục tiêu nào đó.
Kết quả cho thấy, những người có bộ não với tính môđun cao dễ thành công trong việc thực hiện các tác vụ đơn giản hơn những người có bộ não với tính môđun thấp. Trong thí nghiệm đo thời gian phản ứng đối với các hướng mũi tên, những người có bộ não với tính môđun cao đã thực hiện thành công gần gấp đôi so với những người có bộ não với tính môđun thấp.
Tuy nhiên, những người có bộ não với tính môđun thấp lại thành công lớn hơn trong những nhiệm vụ phức tạp. Ví dụ, họ nhớ chính xác 86% số đồ vật trong nhiệm vụ ghi nhớ, trong khi con số này ở các cá nhân với bộ não có tính môđun cao chỉ là 76%.
Bộ não là một mạng lưới
Ông Fischer-Baum cho biết hiệu ứng này có thể được dùng để xem xét mối liên hệ với sự suy giảm trí nhớ làm việc theo tuổi tác, đó là dấu hiệu của những ảnh hưởng nhận thức của lão hóa.
Giáo sư tâm lý học Randi Martin - tác giả chính của nghiên cứu - cho biết, một trong các điểm chính của nghiên cứu này là mối quan hệ giữa các nhiệm vụ đơn giản và phức tạp và môđun cao và thấp, được dự đoán bởi một lý thuyết rất chung về sinh học do Michael Deem - đồng tác giả nghiên cứu và John W. Cox - giáo sư về kỹ thuật sinh hóa, di truyền học, vật lý và thiên văn tại Đại học Rice đề xuất.
Theo lý thuyết này, các hệ thống kiểu môđun nói chung thường thực hiện tốt hơn trong các nhiệm vụ đơn giản, mất ít thời gian hơn để thực hiện, trong khi các hệ thống môđun thấp hoạt động tốt hơn với các nhiệm vụ phức tạp, cần nhiều thời gian hơn để thực hiện. Nghiên cứu này chứng minh rằng nguyên lý chung của sinh học áp dụng được cho thần kinh học nhận thức.
Các tác giả cho biết nghiên cứu này có ý nghĩa quan trọng để hiểu bộ não như một mạng lưới. "Trong khi các nhóm khoa học khác đã tìm ra mối tương quan giữa tính chất mạng não và hiệu suất của các nhiệm vụ khác nhau, nghiên cứu của chúng tôi là công trình đầu tiên chứng tỏ rằng những mối quan hệ này có thể được hiểu bằng một lý thuyết cơ bản hơn về môđun trong các hệ thống sinh học" - Fischer-Baum nói.