GS Susan Solomon, người giành giải Giải Đặc biệt VinFuture 2023 cho Nhà khoa học nữ với khám phá cơ chế gây suy giảm tầng ozone ở Nam Cực, nói về những phẩm chất đã giúp bà kiên định với ý tưởng nghiên cứu, dù bị đồng nghiệp phản đối, và cách để đem phát minh phụng sự nhân loại.
PV: Bà cảm thấy như thế nào sau khi nhận giải thưởng đặc biệt VinFuture 2023?
GS Susan Solomon: Đầu tiên, tôi cảm thấy vô cùng vinh dự và tuyệt vời khi nhận giải thưởng danh giá này. Tôi cũng cảm thấy rất biết ơn và rất ấn tượng. Những người sáng lập đã tạo ra một giải thưởng đặc biệt dành cho nhà khoa học nữ. Tôi nghĩ rằng việc thành lập giải thưởng này sẽ tạo ra một hình mẫu để các nhà khoa học nữ khác có thể noi theo và được truyền cảm hứng để họ có thể theo đuổi giấc mơ của mình và trở thành nhà khoa học thành công mà không có bất kì rào cản nào. Tôi nghĩ rằng giải thưởng này giống như một tấm hộ chiếu để trong tương lai, chúng ta sẽ có thể có nhiều nhà khoa học nữ hơn nữa.
PV: Giáo sư có thể chia sẻ những khó khăn mà bà đã gặp trong quá trình nghiên cứu, những khó khăn trong công việc và gia đình?
GS Susan Solomon: Phát hiện đầu tiên của tôi là giải thích cơ chế tại sao lỗ thủng tầng ozone ở Nam Cực lại xảy ra. Đây là một cú sốc trong cộng đồng khoa học bởi vì người ta luôn cho rằng không có phản ứng bề mặt ở tầng bình lưu. Vì vậy, khi tôi đưa ra vấn đề này lần đầu tiên, một số đồng nghiệp đã bỏ đi nhưng tôi không bận tâm, vì tôi thực sự biết rằng mình đúng. Và theo thời gian, mọi người đều biết đây là một hành trình thú vị.
Bài học mà tôi rút ra được đó là mình có thể lắng nghe quan điểm của người khác, nhưng không phải lúc nào cũng nên dựa vào quan điểm của họ, đôi lúc mình cũng phải lắng nghe chính mình, phải kiên định với chính mình. Một lời khuyên nữa đó là nếu chúng ta là nhà khoa học thì chúng ta không bao giờ được giới hạn suy nghĩ của mình trong một giới hạn mà phải luôn phải vượt qua giới hạn, luôn phải suy nghĩ một cách cởi mở hơn.
Nhưng tôi hiểu tại sao mọi người lại cảm thấy như vậy. Tôi còn rất trẻ khi lỗ thủng tầng ozone được phát hiện. Và tôi nghĩ thật tốt khi hiểu rằng đây là một cơ hội tuyệt vời. Khi bạn còn trẻ, bạn biết đấy, đầu óc bạn chưa có nhiều ý tưởng. Vì vậy, bạn có thể nghĩ về những ý tưởng mới và đó là điều đã xảy ra với tôi. Vì vậy, tôi có thể nói rằng đó là hành trình lớn nhất của tôi khi hướng tới mục tiêu khoa học.
Bạn cũng hỏi về gia đình và những thứ khác. Điều quan trọng là có một người bạn đời luôn hỗ trợ bạn, và tôi thật may mắn khi tìm được một người bạn đời tuyệt vời. Chúng tôi đã ở bên nhau 35 năm và mối quan hệ vẫn thật tuyệt vời. Thế nên một điều nữa mà tôi muốn khuyên các nhà khoa học nữ đó là nếu chúng ta muốn theo đuổi con đường này thì hãy đảm bảo rằng người bạn đời mà chúng ta chọn phải là người luôn luôn ủng hộ và hỗ trợ chúng ta theo đuổi hành trình của mình.
PV: Giáo sư có thể chia sẻ đâu là phương thức để vượt qua khó khăn trong công việc?
GS Susan Solomon: Tôi luôn luôn cố gắng, bình tĩnh và giữ khiếu hài hước. Điều này xảy ra khi có ai đó nói những điều không hay đối với chúng ta hay có ai đó phản đối ý tưởng của chúng ta. Thay vì giận dữ làm cho tình huống tồi tệ hơn thì tôi luôn bảo với các sinh viên của mình, đặc biệt là các sinh viên mong muốn trở thành những nhà khoa học nữ, rằng các bạn có thể đùa về tình huống đó và cố gắng là làm giảm độ nghiêm trọng, không cần phải quan trọng hóa những câu nói như thế bởi vì ý kiến của những người xung quanh rất đáng trân trọng. Nó cũng giúp cho chúng ta bình tĩnh hơn khi gặp khó khăn.
PV: Theo Giáo sư, chúng ta cần làm gì cho tầng ozone?
GS. Susan Solomon: Tôi nghĩ, đầu tiên chúng ta phải nhận diện được mức độ nguy cấp của tầng ozone, đặc biệt là trong thế kỷ 21, đó đã là một thành công rất lớn rồi. Chúng ta cần cố gắng đưa ra những cơ chế cũng như những giải pháp mang tính tổ chức hơn để giải quyết vấn đề này. Ví dụ, chúng ta áp dụng kiến thức của mình về tầng ozone để xử lý những vấn đề, chẳng hạn như vấn đề ô nhiễm hay vấn đề biến đổi khí hậu ở Việt Nam.
Một điều nữa là, chúng ta cần quan tâm làm thế nào để vận động mọi người tạo ra sự thay đổi, để sự thay đổi này không dừng lại ở những hành động đơn thuần của từng cá nhân, ví dụ như yêu cầu từng cá nhân tái chế. Chúng ta cần tạo ra sự thay đổi mang tính cộng đồng, tức là cần huy động được sự tham gia của nhiều người và giúp cho mọi người hiểu được. Tôi nghĩ rằng đây là một bài học giúp cho chúng ta có thể biến phát minh này thành một điều phụng sự cho nhân loại.
Tôi nghĩ rằng khoa học đóng vai trò rất quan trọng trong việc chúng ta giảm thiểu các vấn đề môi trường, tăng cường sự bảo vệ môi trường. Khi khoa học chưa được chứng minh, chưa có những cơ chế, những cơ sở chắc chắn để chứng minh thì chúng ta cũng không có cơ sở để xây dựng chính sách hỗ trợ bảo vệ môi trường. Tôi thấy một điều rất hay của giải thưởng VinFuture là đã nhận diện được rất rõ tầm quan trọng của khoa học đối với những vấn đề lớn, ví dụ vấn đề bảo vệ môi trường hay vấn đề thu hẹp lỗ thủng tầng ozone.
Nhưng nếu chỉ có một mình khoa học, những bằng chứng khoa học hay những cơ sở nghiên cứu khoa học là không đủ mà chúng ta phải tìm cách hỗ trợ cho các nhà hoạch định chính sách trong việc đưa ra những chính sách tốt hơn và huy động mọi người tham gia vào việc bảo vệ môi trường tốt hơn.