Kinh nghiệm từ các quốc gia đi trước cho thấy có nhiều vấn đề cần đặt lên bàn cân khi một quốc gia bắt tay vào xây dựng đại học đẳng cấp quốc tế, trong đó đầu tiên và quan trọng nhất là nhà nước có thể cam kết tài trợ bao nhiêu và bao lâu.

Từ những năm đầu của thiên niên kỷ, các nhà khoa học Việt Nam trong và ngoài nước đã bàn bạc, kiến nghị về các hướng xây dựng một hoặc vài đại học đẳng cấp quốc tế (ĐH ĐCQT). Cùng thời gian đó, hơn 15 quốc gia/vùng lãnh thổ trên thế giới đã triển khai các khoản tài trợ Sáng kiến Học thuật Xuất sắc (Academic Excellence Initiatives - AEI) với mục đích tương tự. Một nhóm tác giả gồm những nhà nghiên cứu hàng đầu về ĐH ĐCQT như Phillip G. Altbach và Jamil Salmi đã xuất bản cuốn sách “Academic Star Wars: Excellence Initiatives in Global Perspective” (2023) để nhìn lại dấu ấn AEI ở các quốc gia/vùng lãnh thổ tiêu biểu.

Bối cảnh ra đời

Làn sóng AEI đầu tiên xuất hiện từ thập niên 1990, bắt đầu với Project 211 (1995) của Trung Quốc đại lục hay Brain Korea 21 (1999) của Hàn Quốc, thuần túy nhằm xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao cho nền kinh tế tri thức.

Trong lúc đó, hệ thống đại học của Nhật Bản, Đức, Pháp đã có danh tiếng nhất định trong khu vực về chất lượng giảng dạy và R&D. Làn sóng AEI thứ hai chỉ thật sự bắt đầu từ sự ra đời của hai bảng xếp hạng (BXH) đại học toàn cầu: xếp hạng Thượng Hải ARWU từ năm 2003 và xếp hạng Times Higher Education từ năm 2004, nơi các cường quốc này cảm nhận được sự “tụt hậu” khi các trường đại học của họ có thứ hạng gây sốc.

Làn sóng thứ ba đến từ các nước như Malaysia, Đài Loan, LB Nga, Đan Mạch khi tham vọng ĐH ĐCQT dần trở thành một trào lưu.


AEI không phải những sáng kiến quy mô lớn đầu tiên của các chính phủ nhằm tăng cường hoạt động nghiên cứu, bồi dưỡng nhân tài cao cấp, xây dựng năng lực quản lý, và nâng cao khả năng cạnh tranh quốc tế của nền khoa học. Thế nhưng, ba điều cốt lõi khiến AEI trở nên khác biệt là:

1. AEI đa phần được thúc đẩy bởi sự ra đời của các BXH đại học quốc tế, với mục tiêu tăng hạng và xây dựng các ĐH ĐCQT, thách thức sự thống trị của các trường hàng đầu của Mỹ và Vương quốc Anh.

2. Đối tượng nhận được các ưu đãi đặc biệt về nguồn lực này là các trường đại học thay vì các viện nghiên cứu, kể cả ở các quốc gia vốn hoạt động nghiên cứu mạnh ở các cơ sở ngoài đại học như LB Nga, Pháp, Đức.

3. AEI thể hiện sự chuyển dịch sang phương thức cấp tài trợ dựa trên hiệu quả hoạt động (performance-based funding). AEI chỉ tập trung nguồn lực tài chính vào một số ít trường hoặc nhóm nghiên cứu tinh hoa có khả năng bứt phá nhanh trong cuộc đua quốc tế.


ĐH ĐCQT là một khuôn mẫu quen thuộc, bao gồm các yếu tố: cơ sở hạ tầng, môi trường học thuật, trình độ giảng viên và sinh viên, chất lượng nghiên cứu khoa học, và danh tiếng mang tầm cỡ khu vực/thế giới... Các yếu tố này không dễ đong đếm, vậy nên dù có nhiều ý kiến trái chiều, một thước đo tuyệt đối quan trọng (và tiện lợi) của ĐH ĐCQT là vị trí trong các BXH đại học toàn cầu.Việc thăng hạng hay vào tốp đầu - dù là ngầm hiểu hay nói thẳng ra như LB Nga, Malaysia, Pháp, Nhật Bản - đều là một “đầu ra” quan trọng của các AEI.

Bộ Giáo dục Nga thậm chí còn mổ xẻ cách tính điểm của các BXH để thiết kế KPI phù hợp, qua đó đánh giá các trường tham gia AEI. Một số BXH được coi trọng hơn phần còn lại, ví dụ hội đồng xét duyệt tài trợ của Pháp chỉ tin vào BXH Leiden và ARWU. Thứ hạng ở Pháp được coi trọng tới mức các "trường lớn" grandes écoles ngần ngại tham gia vào các dự án sáp nhập (merger) hoặc liên minh (alliance) vì e ngại cả cụm sẽ bị kéo tụt xuống. Bộ Giáo dục Pháp cũng dành nhiều công sức vận động hành lang để hai bảng này “chịu” xếp hạng cả liên minh đại học thay vì xếp các trường thành viên.

Cơ chế tuyển chọn và phân bổ nguồn lực

Có sự khác biệt giữa các quốc gia trong việc thiết kế và triển khai AEI. Một số AEI có quy mô lớn và đã chi hàng tỷ USD, một số thì khiêm tốn hơn nhiều. Nhưng nhìn chung, có các điểm đáng chú ý như sau:

Thứ nhất, rất tốn kém để tài trợ cho tất cả các trường nên AEI đều có tính cạnh tranh cao trong một phạm vi hạn chế. Có lẽ chỉ có Hàn Quốc là mời tất cả các đại học trong nước tham gia. Nguồn tài trợ cạnh tranh này kích thích hiệu quả hoạt động của các trường và là một phương tiện mạnh mẽ để thúc đẩy đổi mới sáng tạo và những chuyển đổi mà nhà nước mong muốn.

Thứ hai, việc trao quyền ra quyết định tài trợ cho các hội đồng chuyên gia độc lập là một cách tiếp cận phổ biến của AEI. Ngoại trừ Trung Quốc, các quốc gia/vùng lãnh thổ còn lại đều mời chuyên gia quốc tế vào hội đồng giám khảo để đảm bảo tính độc lập, khách quan và không có xung đột lợi ích. Ở Đức và Pháp, các giáo sư nước ngoài chiếm đa số ghế trong hội đồng. Nhìn chung, các AEI có một quá trình tuyển chọn công bằng và minh bạch.

Thứ ba, các chính phủ cũng mạnh dạn thử nghiệm nhiều ý tưởng mới. Ở Đức, AEI phản ánh mối quan hệ hợp tác giữa chính phủ liên bang và chính quyền tiểu bang (länder). Tương tự, các chính quyền địa phương ở Trung Quốc được kêu gọi tích cực tham gia đồng tài trợ bình đẳng với chính phủ trung ương, vì những lợi ích mà các trường có thể mang lại cho nền kinh tế địa phương.

Cuối cùng, các chế tài giám sát đa dạng được đưa vào thực tiễn, như thành lập các tổ chuyên trách, đánh giá kết quả hoạt động giữa kỳ và cuối kỳ qua các hình thức: báo cáo tự đánh giá, thuyết trình và phản biện, tham quan thực địa… Điều này khiến các trường đại học liên tục phải nỗ lực để không bị đào thải do thành tích hoạt động không được như kỳ vọng. Việc xây dựng ĐH ĐCQT dưới dạng quy hoạch theo chu kỳ thường là 5 năm, các trường cũng quen với cách tiếp cận tài trợ dự án, gắn liền với việc đặt ra những chỉ số đầu ra cần đạt được trong ngắn hạn.

Tác động

Do các AEI luôn nằm lồng ghép trong nhiều cải cách giáo dục và nhiều AEI mới chỉ được giới thiệu vài năm, nên không dễ tách rời tác động của AEI. Một điều rõ ràng là nhờ cơ chế cạnh tranh và KPI minh bạch, AEI có những tác động lan tỏa lên toàn hệ thống giáo dục đại học chứ không chỉ lên các trường được hưởng lợi, bao gồm:

Đầu tiên, chỉ có các đại học ở Trung Quốc đạt được sự thăng hạng đáng kể trên các BXH quốc tế, trong đó từ không có trường nào trong tốp 200 của ARWU năm 2004, nước này đã có 7 trường trong tốp 100 năm 2021. Đan Mạch hiện có hai trường trong tốp 100 (từ một trường vào năm 2004). Pháp vẫn giữ nguyên số lượng trường trong tốp 100, trong khi Đức và Nhật Bản lần lượt mất 3 và 2 trường. Nga ổn định, chỉ có một trường; trong khi cả Malaysia, Hàn Quốc và Đài Loan đều không vào tốp 100 nhưng thứ hạng ổn định. Như vậy, AEI không thể giúp các quốc gia bứt phá trong xếp hạng và đảo ngược thế thống trị của các ĐH Anh-Mỹ. Các thành quả hạn chế ở Đài Loan và Nhật Bản được giải thích là do nguồn tiền từ AEI không nhiều và các chính sách không nhất quán theo thời gian, ngược lại với các quốc gia còn lại nơi các chính sách có tính liên tục, bất chấp những thay đổi của chính phủ. Thành công của Trung Quốc một phần do chi tiêu cho AEI nhiều gấp đôi tổng các nước còn lại (tổng cộng 100 tỷ USD) và sự phối hợp chặt chẽ giữa chính phủ và các trường trong ba thập kỷ liên tục.

Tiếp đó, các đại học tham gia AEI từ tất cả các quốc gia đều có số công bố quốc tế tăng mạnh. Năng suất khoa học thường là một trong những KPI chính của AEI do những kết quả về mặt công bố thường dễ đong đếm nhất. Các chính sách đi liền với AEI cũng góp phần thay đổi thói quen khoa học của các nền học thuật lâu đời. Ví dụ, Bộ Giáo dục Pháp yêu cầu các nhà nghiên cứu để affiliation là tên trường đại học thay vì tên lab như truyền thống, nhằm tăng điểm nghiên cứu cho các đại học trên các BXH. Như vậy, ở tầm hệ thống, AEI góp phần hình thành, thúc đẩy, hoặc tái định hình văn hóa nghiên cứu.

Cần lưu ý rằng, AEI chỉ là một nguồn lực bổ sung cho cơ chế tài trợ thường xuyên cố định cho các đại học, tùy quốc gia mà nguồn kinh phí từ AEI chỉ chiếm một phần trong ngân sách hằng năm của các trường, từ khiêm tốn ở mức 0,5% (Đan Mạch) đến 15% (Đài Loan). Chỉ có một trường hợp cá biệt lên tới 45% như ĐH Bắc Kinh. Tuy nhiên, các trường còn thu về các lợi ích gián tiếp khác từ việc được dán nhãn “ưu tú”. Với uy tín quốc nội và quốc tế tăng cao, các trường này tăng cường thu hút tài trợ từ bên thứ ba, ví dụ từ khu vực tư nhân. Họ cũng tận dụng vị thế mới để hợp tác với các nhóm nghiên cứu trên thế giới, thu hút học giả quốc tế đến làm việc, lôi kéo du học sinh trở về, và chèo kéo sinh viên xuất sắc. Không chỉ đẩy nhanh quá trình quốc tế hóa, tác động quan trọng nhất của AEI có lẽ là giúp các trường xây dựng được đội ngũ giảng viên và sinh viên hàng đầu, đạt đến một “critical mass” - khi mà những khối óc tinh hoa có sức hút không thể cưỡng lại được đối với các thế hệ tinh hoa tiếp theo, và do đó giúp duy trì vị thế hàng đầu của nhà trường.

Tài trợ từ Sáng kiến Học thuật Xuất sắc có thể chiếm từ 0,5 đến 15% ngân sách hằng năm của các trường. Chỉ có một trường hợp cá biệt lên tới 45% như ĐH Bắc Kinh. Ảnh minh họa: Sinh viên ĐH Bắc Kinh. Nguồn: INT
Tài trợ từ Sáng kiến Học thuật Xuất sắc có thể chiếm từ 0,5 đến 15% ngân sách hằng năm của các trường. Chỉ có một trường hợp cá biệt lên tới 45% như ĐH Bắc Kinh. Ảnh minh họa: Sinh viên ĐH Bắc Kinh. Nguồn: INT

Về mặt quản trị, quá trình tuyển chọn cạnh tranh của AEI cũng góp phần nuôi dưỡng một thế hệ lãnh đạo đại học mới. AEI là động lực khiến các lãnh đạo phát triển tầm nhìn mang tính chuyển đổi táo bạo và đặt ra các ưu tiên để trường mình trở nên khác biệt so với phần còn lại. Các trường cũng buộc phải nâng cao năng lực giải trình dưới sự “giám sát” ngày càng tăng của chính phủ và xã hội. Ở nhiều quốc gia, kết quả tài trợ nhận được sự quan tâm chưa từng có của công chúng. Ví dụ ở Đức, vào khung giờ vàng trên chương trình thời sự (tagesschau), công chúng được chứng kiến cảnh các hiệu trưởng đại học lao lên sân khấu giơ tay lên trời hoặc nhảy lên sung sướng trong tiếng vỗ tay như sấm của giảng viên và nhân viên nhà trường. AEI đã biến các quyết định tài trợ thành các sự kiện truyền thông rầm rộ như thể giành chức vô địch bóng đá, vượt ngoài khuôn khổ của tháp ngà khoa học.

Ở nhiều trường hợp điển hình như Pháp, Nga, Đài Loan, Nhật, Đức, thông qua AEI, các chính phủ khuyến khích việc cải tổ cách thức vận hành, chuyển đổi tư cách pháp nhân, đồng thời tái cơ cấu, sáp nhập hoặc tạo thành liên minh để xây dựng các tổ chức mạnh hơn và hiệu quả hơn để nhận tài trợ. Logic đằng sau là qua các cải tổ này, nguồn lực sẽ được tập trung, và phạm vi ngành học được mở rộng, đồng thời tạo điều kiện cho các nghiên cứu liên ngành.

Nghiên cứu chính sách về sự xuất hiện của các ĐH ĐCQT ở nhiều nơi trên thế giới đã nhấn mạnh tính thiết yếu của các nhóm yếu tố: tập trung nhân tài, nguồn lực dồi dào, quản trị thuận lợi, sự cam kết lâu dài của chính phủ, tầm nhìn rõ ràng của lãnh đạo trường… Có thể nói các AEI tác động trực tiếp vào tất cả các nhóm yếu tố này, đặc biệt là bồi dưỡng và thu hút thế hệ nhân lực mới trong các trường đại học. Đây là chìa khóa dẫn tới những thay đổi tích cực trong toàn bộ hệ thống một cách lâu dài. Ngay cả những trường không nhận được tài trợ cũng cố gắng để cải thiện hiệu quả hoạt động của mình, tương tự các trường AEI đang làm.

Nhìn về Việt Nam

Nhìn vào các trường hợp đi trước, có nhiều vấn đề cần đặt lên bàn cân khi một quốc gia bắt tay vào xây dựng ĐH ĐCQT thông qua các AEI.

Đầu tiên và quan trọng nhất, nhà nước có thể cam kết tài trợ bao nhiêu và bao lâu. Các nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới cho thấy, để trở thành một trường ĐH ĐCQT, việc đảm bảo quyền tự chủ là tối quan trọng. Tự chủ không chỉ có nghĩa là không bị can thiệp quá nhiều từ bên ngoài mà còn là đảm bảo đủ nguồn lực để các trường có thể thực hiện các nhiệm vụ thiết yếu. Việc xây dựng cơ sở hạ tầng khoa học và thu hút nhân tài rất tốn kém. Các sáng kiến AEI phụ thuộc rất nhiều vào ngân sách và định hướng của nhà nước. Sự tham gia đầu tư từ các bên thứ ba còn hạn chế, nên tính bền vững của các AEI luôn là câu hỏi hàng đầu. Một khi chính phủ dừng bơm tiền, liệu các dự án có thể tiếp tục tự vận hành?

Thứ hai, nên đi theo hướng thành lập một đại học mới hoàn toàn từ con số không như trường hợp của ĐH Khoa học và Công nghệ Hồng Kông hay sáp nhập các trường nhỏ thành một khối lớn đa ngành như Pháp, Trung Quốc. Những mô hình gắn kết với nhau lỏng lẻo như các liên minh ĐH Paris-Saclay và ĐH tổng hợp Paris Sciences et Lettres của Pháp - mặc dù đạt được các kết quả xếp hạng tốt nhờ cú hích mạnh từ chính phủ - nhưng các liên minh này có đích thực chuyển mình thành một khối thống nhất vận hành trơn tru đường dài hay không thì cần thêm thời gian để trả lời.

Thứ ba, nên tiếp cận theo hướng tinh hoa hay hướng quân bình? Sự cạnh tranh gay gắt để vào nhóm nhỏ “xuất sắc” đã tạo nên kẻ thắng người thua, và người thua thì không bằng mặt cũng không bằng lòng. Thêm nữa, vì đặc thù lựa chọn KPI nặng về các chỉ số đo đếm được mà ở tất cả các nước, AEI bị chỉ trích do các trường khối khoa học xã hội và nhân văn, các trường ở tỉnh/thành phố nhỏ, hoặc các trường khối tư thục chịu nhiều thiệt thòi. Ngược lại, các đại học tinh hoa liên kết với nhau thành các “ivy league” một mình một cõi như nhóm 10 trường Udice ở Pháp, C9 ở Trung Quốc, 13 trường G30 ở Nhật, Hiệp hội các Đại học Toàn cầu (GUA) ở Nga. Có thể nói, hiệu ứng Matthew (các trường vốn mạnh sẽ ngày càng mạnh lên, và ngược lại) của AEI làm gia tăng sự phân tầng giữa các nhóm trường và gia tăng khoảng cách giữa các vùng miền địa lý trong cùng một quốc gia.

Điều này cũng liên quan mật thiết đến vấn đề thứ tư là định nghĩa “xuất sắc” trong tương lai của giáo dục đại học tại Việt Nam là gì. Tại Trung Quốc, mỗi trường đại học trong dự án Double First Class (Hạng Nhất Kép) phải chọn một (vài) đối trọng phương Tây, ví dụ ĐH Thanh Hoa coi Viện Công nghệ Massachusetts (MIT) làm khuôn mẫu. Ám ảnh xếp hạng và chỉ số có thể giúp đi tắt đón đầu và bắt kịp các đại học nghiên cứu đa ngành khối Anh-Mỹ, nhưng cũng khiến các trường AEI thiếu đi sức sáng tạo và trí tò mò. Ở một số quốc gia, các trường có nhiều chiến lược khác nhau để theo đuổi, ví dụ các đại học Hàn Quốc tập trung quốc tế hóa trong nước (internationalization at home), tức là tăng cường giảng dạy bằng tiếng Anh và yêu cầu giảng viên phải có công bố quốc tế. Ở Đài Loan, vấp phải làn sóng chỉ trích của các đại học bị AEI cho “ra rìa”, chính phủ đã mở thêm hai hạng mục: xuất sắc trong giảng dạy và xuất sắc trong hợp tác với doanh nghiệp. Việc mở rộng định nghĩa của “xuất sắc” vừa phù hợp với sứ mệnh của từng nhóm đại học trong một hệ thống phân tầng, vừa phù hợp với hoàn cảnh địa phương. Không dừng lại ở đó, do theo đuổi chủ nghĩa quân bình, Thái Anh Văn sau khi đắc cử đã chuyển trọng tâm của AEI sang trách nhiệm xã hội của các đại học.

Hiện nay, Việt Nam vẫn chưa có cơ chế phân bổ ngân sách cạnh tranh cho các đại học “xuất sắc” theo đúng nghĩa AEI ở các nước/vùng lãnh thổ nêu trên, trong khi đó, các hàng xóm như Thái Lan và Indonesia đang đẩy mạnh tham vọng này. Có lẽ đã đến lúc những đề xuất về xây dựng ĐH ĐCQT từ nhiều năm trước cần được đặt lại lên bàn thảo luận?


Nguồn tham khảo:

Yudkevich, M., Altbach, P. G., & Salmi, J. (Eds.). (2023). Academic Star Wars: Excellence Initiatives in Global Perspective. MIT Press.

Salmi, J. (2009). The challenge of establishing world-class universities. World Bank Publications.

Dobbins, M. (2012). How market-oriented is French higher education?. French politics, 10, 134-159.

Hoàng Tụy. Xây dựng đại học đẳng cấp quốc tế tại Việt Nam. Tia Sáng, 22/12/2005.|

Bài đăng số 1281 (số 9/2024) KH&PT