Đa dạng về nguồn gene và có giá trị kinh tế cao nhưng chưa được nghiên cứu nhiều, cây sâm Việt Nam rất cần các biện pháp để bảo tồn nguồn gene và triển khai các nghiên cứu khoa học cũng như phát triển kỹ thuật trồng trọt.

Đó là khuyến nghị của các chuyên gia Hàn Quốc tại Hội thảo quốc tế “Trao đổi kinh nghiệm nghiên cứu và phát triển sản phẩm hàng hóa từ sâm” do Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) tổ chức ngày 30/7, tại Hà Nội.

Theo PGS.TS. Phan Kế Long, Bảo tàng thiên nhiên Việt Nam, Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam, các loài sâm (chi Panax L.) ở Việt Nam thường được ghi nhận ở những vùng núi có độ cao trên 1000m so với mực nước biển như Lai Châu, Lào Cai, Quảng Nam, Kon Tum, Lâm Đồng, và nhiều khả năng có thể cũng được tìm thấy ở những vùng núi cao khác có điều kiện sinh thái phù hợp với sự sinh trường và phát triển của chúng. Trên cơ sở phân tích vùng gien ITS-rDNA của 31 mẫu thuộc chi Panax thu được ở vùng núi Phu xai lai leng thuộc Khu dự trữ sinh quyển Tây Nghệ An cho thấy, các mẫu này thuộc 3 nhóm: P. wangianus, P. notoginseng và P. stipuleanatus.

“Với kết quả này, chúng tôi xác định có thể tìm được nhiều hơn nữa các quần thể Panax ở Việt Nam trên những vùng núi cao. Điều này cho thấy sự đa dạng của chi Panax ở Việt Nam khá cao và cần có nhiều hợp tác trong và ngoài nước trong bảo tồn và khai thác các giá trị của những loài cây thuốc quý này”, ông Long nhấn mạnh.

Tuy nhiên, việc trồng sâm Việt Nam đang được tiến hành nhưng chưa phát triển. Do nhu cầu sâm cao, nguồn cung cấp hạn chế nên giá sâm Việt Nam hiện nay rất đắt, khoảng 80 – 100 triệu đồng/kg sâm tươi.

Củ sâm Ngọc Linh tự nhiên hơn 150 năm tuổi được người dân H.Nam Trà My (Quảng Nam) phát hiện. Ảnh: Hoàng Thọ

Trong khi đó, Hàn Quốc đã có nền “công nghiệp sâm Hàn Quốc”, theo GS.TS. Park Jeong Hill. Sản lượng sâm Hàn Quốc hàng năm là 23.000 tấn, đem lại doanh thu 2 tỷ USD. Tổng diện tích canh tác là 15.000ha, năng suất thu hoạch 6 tấn/ha. Hiện Hàn Quốc có 21.000 nông trại, 4 chợ sâm, 7 viện nghiên cứu và 12 hợp tác xã (gồm cả của Chính phủ và tư nhân). Lượng sâm xuất khẩu năm 2017 đạt 6.415 tấn/160 triệu USD. Thu nhập trung bình mỗi hộ trồng sâm khoảng 40.000 USD/năm (số liệu năm 2017).

GS. Park Jeong Hill cho rằng, hiện sâm Việt Nam rất đa dạng và có nhiều thành phần nhưng chưa được trồng trọt một cách quy mô, kế hoạch và kỹ thuật trồng trọt chưa phát triển tốt. Ông cho rằng, để phát triển nền công nghiệp sâm ở Việt Nam, có 3 định hướng rất quan trọng. Đầu tiên, cần bảo tồn nguồn gien. “Cần thu thập các mẫu sâm để bảo tồn từng mẫu riêng biệt. Việc này rất cần sự hỗ trợ của Chính phủ”, ông nhấn mạnh.

Thứ hai, cần có các nghiên cứu khoa học về sâm. GS. Park Jeong Hill cho biết, về nghiên cứu khoa học, hiện sâm Hàn Quốc có 3.774 các công bố quốc tế liên quan, Tam thất (sâm Trung Quốc) có 856, sâm Mỹ có 781 còn sâm Việt Nam chỉ có 27 công bố. “Cần có nhiều hơn nữa các công trình nghiên cứu khoa học, nghiên cứu hóa học, hoạt tính sinh học và kiểm nghiệm chất lượng,… Đó là các bằng chứng khoa học về chất lượng và lợi ích của sâm Việt Nam, vừa để thế giới công nhận, vừa thu hút nhu cầu sử dụng”.

Thứ ba, cần phát triển phương pháp trồng trọt chuẩn. Vì vậy, nên có những hiệp hội về sâm. Tại Hàn Quốc, Hội Korean đang nhận được đầu tư lớn từ Chính phủ, các doanh nghiệp. Hội đã thực hiện nhiều nghiên cứu chuyên sâu, xây dựng các tạp chí nghiên cứu về sâm, tổ chức Hội nghiên cứu về sâm 2 lần/năm.

Phát biểu tại Hội thảo, Thứ trưởng Bộ KH&CN Trần Văn Tùng cho biết, thời gian qua Bộ KH&CN đã chủ trì phối hợp với các tỉnh Kon Tum, Quảng Nam để hướng đến phát triển sản phẩm sâm ở vùng này trở thành sản phẩm quốc gia. Trên cơ sở đề nghị của Bộ KH&CN, ngày 05/6/2017, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định 787/QĐ-TTg phê duyệt việc phát triển sản phẩm quốc gia Sâm Việt Nam, tiếp đó Bộ trưởng Bộ KH&CN đã ký Quyết định 3750/QĐ-BKHCN ngày 28/12/2017 về việc phê duyệt Đề án khung phát triển sản phẩm quốc gia Sâm Việt Nam. Đến nay, Đề án đã nhận được sự quan tâm, tham gia của nhiều địa phương như Quảng Nam, Kon Tum và các tổ chức, nhà khoa học hàng đầu trong lĩnh vực nông nghiệp, y tế, đặc biệt của các doanh nghiêp gắn kết chặt chẽ với người dân địa phương.

Thứ trưởng cũng bày tỏ hy vọng, với sự hợp tác song phương, đa phương giữa các đơn vị trong nước và quốc tế, đặc biệt sự kết nối thông qua Hội thảo này, sẽ tìm ra được mô hình sản xuất phù hợp cho cây sâm ở các tỉnh Kon Tum, Quảng Nam theo hướng phát triển hàng hóa có thương hiệu, trở thành một sản phẩm của quốc gia, không chỉ đáp ứng được yêu cầu của người tiêu dùng trong nước mà còn có khả năng tham gia thị trường thế giới. Thứ trưởng cũng lưu ý, tất cả tiêu chuẩn, các vấn đề từ khâu giống, quá trình sản xuất, thu hoạch, bảo quản, chế biến, xây dựng thương hiệu, vệ sinh an toàn thực phẩm,… đều phải tuân thủ các tiêu chuẩn trong nước và quốc tế.

Tiềm năng và giá trị kinh tế lớn

Theo GS.TS. Nguyễn Minh Đức, trường Đại học Tôn Đức Thắng, sâm Việt Nam, còn gọi là Sâm Ngọc Linh, tên khoa học là Panax vietnamensis Ha et Grushv., họ Nhân sâm (Araliaceae), là một loài Panax mới của thế giới.


“Mặc dù vừa gia nhập thị trường nhân sâm thế giới nhưng sâm Việt Nam đã được đánh giá là có tiềm năng và giá trị lớn. Sâm Việt Nam có thành phần hóa học giống nhân sâm, nhưng lại có hàm lượng saponin rất cao, với sâm trồng 6 tuổi khoảng 20%, cao hơn nhiều so với nhân sâm và các loại khác”, GS. Nguyễn Minh Đức cho biết.

Hiện nay, đã có 27 công bố quốc tế về sâm Việt Nam trên các tạp chí quốc tế chứng minh thành phần hóa học của sâm Việt Nam rất đặc biệt: Ngoài việc có hàm lượng saponin rất cao, sâm Việt Nam còn chứa một tỷ lệ cao các saponin có cấu trúc occotillol không có trong nhân sâm, trong đó saponin chủ yếu là majonosid-R2 có hàm lượng rất cao, có thể chiếm gần ½ hàm lượng saponin toàn phần. Về mặt dược lý, sâm Việt Nam có nhiều tác dụng như tăng lực, kích thích thần kinh trung ương, bảo vệ gan, hoạt tính androgen, kích thích miễn dịch, cải thiện trí nhớ, hạ đường huyết,… Majonosid-R2 cũng đã được chứng minh có tác động chống stress, chống trầm cảm, bảo vệ gan, chống oxi hóa và chống khối u.

Các nghiên cứu về chế biến sâm Việt Nam cho thấy khi hấp ở nhiệt độ 105 – 120 độ C, thành phần saponin của sâm Việt Nam biến đổi, tương tự như khi chế biến hồng sâm và tạo ra những hợp chất saponin mới với số lượng tăng theo thời gian hấp. Quá trình chế biến với nhiệt làm tăng cường tính oxi hóa, tính ức chế tế bào ung thư phổi A549.

So sánh và đánh giá sâm Việt Nam so với sâm Hàn Quốc, GS.TS. Park Jeong Hill, trường Đại học Dược - Đại học Quốc gia Seoul, Hàn Quốc cho rằng. “So với sâm Hàn Quốc, sâm Việt Nam chưa được nghiên cứu nhiều. Tuy nhiên, sâm Việt Nam có tiềm năng cao để trở thành sản phẩm tương tự như sâm Hàn Quốc ở Việt Nam do có hàm lượng saponin cao và có xuất xứ đặc hữu ở Việt Nam”, GS. Park Jeong Hill nhận định.