Nhiều tuần hoặc vài tháng sau khi khỏi bệnh, những người từng bị nhiễm COVID vẫn có các triệu chứng suy nhược như mệt mỏi, mất khả năng tập trung và đau đầu.
Ngày 15/9, Viện Y tế Quốc gia Mỹ (NIH) đã công bố tài trợ gần 470 triệu USD cho Đại học New York (NYU) thực hiện một nghiên cứu có sự tham gia của 40.000 người lớn và trẻ em bị nhiễm SARS-CoV-2, nhằm tìm hiểu nguyên nhân của những tác động kéo dài do COVID-19, hay còn gọi là COVID kéo dài. Nghiên cứu này cũng nhằm tìm kiếm các manh mối ban đầu để phát triển các biện pháp điều trị và phòng ngừa.
Giám đốc NIH Francis Collins cho biết trong một cuộc họp báo trực tuyến: "Cách duy nhất để giải quyết các vấn đề liên quan đến COVID kéo dài là bằng các nghiên cứu lớn, thu thập rất nhiều dữ liệu và thực hiện các phép đo lường trong phòng thí nghiệm."
Một bệnh nhân COVID-19 được điều trị tại một trung tâm phục hồi chức năng ở Pisa, Ý.
COVID kéo dài, hay NIH gọi là Di chứng sau cấp tính của nhiễm trùng SARS-CoV-2 (PASC), có thể bao gồm đau đớn, mệt mỏi, khó ngủ, nhức đầu, khó thở, sốt, ho mãn tính, trầm cảm và lo lắng. Tình này này kéo dài từ khi nhiễm bệnh hoặc xuất hiện 4 tuần sau khi nhiễm. Đôi khi các triệu chứng nghiêm trọng đến mức một người không thể làm việc và không thực hiện được các hoạt động ngày thường.
Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Mỹ ước tính 10% đến 30% bệnh nhân COVID-19 mắc chứng COVID kéo dài. Collins cho biết, đến nay đã xác định một vài nguyên nhân có khả năng: ổ chứa SARS-CoV-2 tiềm ẩn trong cơ thể, hệ thống miễn dịch hoạt động sai, hoặc một vấn đề trao đổi chất do nhiễm trùng gây ra. Nhưng "chúng ta không biết chắc", Collins thừa nhận.
Do đó NIH đã vạch kế hoạch ban đầu cho một chương trình nghiên cứu COVID kéo dài, sau khi Quốc hội Mỹ phê duyệt tài trợ 1,15 tỷ USD trong 4 năm dành cho nghiên cứu tình trạng này. Nghiên cứu công bố ngày 15/9 đóng vai trò trung tâm của chương trình nghiên cứu tổng thể, có tên Sáng kiến Nghiên cứu COVID để tăng cường phục hồi (RECOVER) và được giao cho Trung tâm Langone Health thuộc NYU thực hiện. NYU sẽ gửi thư mời tham gia đến hơn 100 nhà nghiên cứu tại 35 viện nghiên cứu, những người sẽ thu nhận bệnh nhân vào thử nghiệm dựa trên một giao thức chung.
Trong vòng 12 tháng, bắt đầu từ tháng 10, RECOVER sẽ ghi danh từ 30.000 đến 40.000 tình nguyện viên từ các nhóm dân cư đa dạng ở tất cả các bang. Phần lớn người tham gia sẽ là những người đang bị COVID-19, bác sĩ tim mạch Stuart Katz của Trường Y Grossman, NYU, nghiên cứu viên chính của RECOVER, cho biết.
RECOVER sẽ cấp cho người tham gia các thiết bị đeo để theo dõi nhịp tim, giấc ngủ, v.v..., và so sánh sức khỏe của những người nhanh chóng phục hồi với những người khác có các triệu chứng COVID kéo dài để từ đó tìm kiếm các yếu tố nguy cơ và manh mối sinh học có thể giải thích tình trạng bệnh. Các nhà nghiên cứu cũng sẽ tìm hiểu xem liệu việc tiêm phòng COVID-19 có làm giảm các triệu chứng COVID kéo dài hay không.
Khoảng một nửa trong số người tham gia sẽ là trẻ em, bao gồm cả một số trẻ sơ sinh. Mặc dù trẻ em bị COVID-19 thường có triệu chứng nhẹ hoặc không triệu chứng, nhưng có những lo ngại về ảnh hưởng lâu dài vì số ca mắc COVID-19 ở trẻ em hiện nay đang “cao nhất từ đầu đại dịch”, Diana Bianchi, giám đốc Viện Quốc gia Mỹ về Sức khỏe trẻ em và Phát triển con người, cho biết.
Bản thân nghiên cứu RECOVER sẽ không thử nghiệm các phương pháp điều trị mới cho COVID kéo dài, Katz nói. Nhưng nhóm sẽ cố gắng xác định các protein hoặc các quá trình phân tử có vai trò trong COVID kéo dài, và các yếu tố này sẽ là manh mối cho phương pháp điều trị, hoặc có thể được điều trị bằng một loại thuốc hiện có. NIH hy vọng sẽ tìm ra những yếu tố đó trong vòng 18 tháng kể từ thời điểm này, và sau đó khởi động các thử nghiệm điều trị với nguồn tài trợ còn lại trong khoản 1,15 tỉ USD từ Quốc hội.
Tuy nhiên, Diana Berrent, người sáng lập Survivor Corps, tổ chức đại diện cho những người bị COVID kéo dài, cho rằng có một lỗ hổng lớn trong kế hoạch RECOVER: khó tuyển đủ người tham gia do tuyển người mới nhiễm vào thời điểm nhiều người đã được tiêm chủng. Ngoài ra, "những người mắc COVID kéo dài từ trước do không được tiêm chủng không giống với những người NIH đang tuyển chọn," Berrent nói.
Theo Berrent, thay vào đó, NIH nên nghiên cứu những người đã mắc COVID kéo dài. Đối tượng này hiện không được mô tả trong thông cáo báo chí của NIH, và Berrent nói rằng NIH đang "bỏ qua mức độ nghiêm trọng của những di chứng lâu dài do virus này gây ra".
Nguồn: