Tại hội nghị giao ban KH&CN các tỉnh, thành phố vùng ĐBSH lần thứ XII năm 2019, một trong những vấn đề được thảo luận nhiều là việc liên kết vùng về KH&CN cần được thực hiện như thế nào cho thực sự có hiệu quả trong bối cảnh tiềm lực tài chính, nhân lực cho KH&CN của các địa phương còn hạn chế.
Hội nghị này do Bộ KH&CN và UBND tỉnh Hải Dương tổ chức tại TP. Hải Dương vào chiều 26/4.
Cùng vấn đề, thách thức chung nhưng vẫn thiếu liên kết
Các tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) vốn chia sẻ với nhau rất nhiều điểm chung về địa hình, khí hậu, tài nguyên thiên nhiên, nguồn lực con người… Vùng cũng đang chịu những thách thức ngày càng gia tăng do ngày càng “thiếu hụt nguồn tài nguyên tự nhiên (đất, nước), thiếu hụt nguồn lực lao động; hệ thống sản xuất nhỏ, manh mún” như Thứ trưởng Bộ KH&CN Phạm Công Tạc đã nhấn mạnh. Trong bối cảnh đó, thúc đẩy liên kết vùng trở thành yêu cầu cần thiết.
Tuy nhiên, đây cũng là điểm yếu của khu vực này mà các thế hệ lãnh đạo tỉnh trong vùng cũng nhận thấy điều đó. “Cách đây năm năm, khi tôi mới được bổ nhiệm làm phó chủ tịch tỉnh, một lãnh đạo tỉnh Hà Nam đã dặn tôi: anh còn trẻ, nên nghiên cứu làm thế nào để liên kết với các tỉnh khác vì mỗi tỉnh đang là một ‘nền kinh tế độc lập’ ”, ông Bạch Ngọc Chiến, Phó chủ tịch UBND tỉnh Nam Định kể lại. Ông chỉ ngay ra “một hạt nhân có thể liên kết mà cuối cùng chưa liên kết được” - dễ thấy trong dịp lễ hội mùa xuân vừa qua, đó là hầu hết các tỉnh ĐBSH đều có lễ hội về nhà Trần nhưng đều tổ chức cùng một thời gian, cùng một kiểu nội dung, một motif du lịch. Tại sao không liên kết với nhau xây dựng các nội dung, cách tổ chức để kéo dài thời gian giữ du khách, tạo thành một chuỗi điểm đến, thay vì khách du lịch tới một tỉnh rồi lại đi về? Ông Chiến đặt câu hỏi và cho rằng, trong mọi lĩnh vực, đặc biệt trong KH&CN rất cần hợp tác để tìm ra giải pháp cho những vấn đề mà nhiều tỉnh cùng quan tâm.
Theo ông Nguyễn Văn Liễu, Vụ trưởng vụ Phát triển KH&CN địa phương, Bộ KH&CN hiện nay việc liên kết giữa các sở trong hoạt động KH&CN còn khá mờ nhạt, chưa có nội dung cụ thể, chưa đề xuất và thực hiện được các nhiệm vụ KH&CN lớn để giải quyết các vấn đề liên tỉnh, liên vùng. Chẳng hạn, hoạt động của hệ thống các Trung tâm ứng dụng, Trung tâm kỹ thuật tiêu chuẩn – đo lường – chất lượng của các địa phương trong vùng chưa được kết nối chia sẻ, hầu như đang hoạt động riêng lẻ nên chưa phát huy hiệu quả tối ưu nguồn lực của các trung tâm, nhất là hệ thống trang thiết bị đã được đầu tư; chưa có được các nhiệm vụ xây dựng, bảo hộ tài sản trí tuệ của các sản phẩm có tính liên tỉnh, liên vùng”.
Tập trung vào các vấn đề thiết thực
Theo ông Dương Ngọc Tuấn, Giám đốc Sở KH&CN Hải Phòng năng lực nghiên cứu, nguồn nhân lực của các cơ quan khoa học cấp tỉnh còn nhiều hạn chế, ở địa phương cùng lắm chỉ hoàn thiện được một sản phẩm cụ thể, một doanh nghiệp ứng dụng công nghệ nào đó, ví dụ như trong nông nghiệp thì hoàn thiện một giống lúa, hay ứng dụng CNTT ở mức đơn giản.
Thực tế đã cho thấy điều đó ở ngay một số địa phương mà ngành KH&CN được coi là có tiềm lực KH&CN thuộc top đầu của vùng như Quảng Ninh, nơi thành công với Chương trình Mỗi xã phường một sản phẩm (OCOP) khi gắn với chuỗi sản xuất địa phương. Chẳng hạn, khi xác định xây dựng chuỗi sản phẩm đặc sản miến dong Bình Liêu, thì “KH&CN vào cuộc bắt đầu từ khâu chọn giống chuẩn, chọn vùng trồng nguyên liệu phù hợp, nghiên cứu và xử lý sâu bệnh cho vùng trồng dong riềng cho tới cải tiến máy móc sản xuất …”, ông Bùi Quang Minh, Phó giám đốc điều hành Sở KH&CN Quảng Ninh nói. Sau đó, sở KH&CN tiếp tục bám sát chương trình khung, hỗ trợ người dân đăng ký sở hữu trí tuệ cho các sản phẩm.
Do đó, để KH&CN có tác động thiết thực đến kinh tế xã hội, từng địa phương cần xác định những nhu cầu thiết yếu cần được ưu tiên, từ đó phối hợp với các địa phương trong vùng huy động lực lượng KH&CN thực hiện. Muốn làm được điều này, theo ông Tuấn, ở cấp địa phương, cán bộ KH&CN không thể “đút chân vào gầm bàn, phải xuống gặp người dân, doanh nghiệp để khảo sát, tìm hiểu nhu cầu công nghệ thì mới biết họ đang cần gì” và giữa các tỉnh phải có sự kết nối thông tin về nhu cầu cung – cầu công nghệ thông qua các sàn giao dịch, điểm cung cầu công nghệ. Cơ sở dữ liệu chung về nhu cầu cung – cầu công nghệ này sẽ giúp người dân, doanh nghiệp trong tất cả các tỉnh có thể cùng tra cứu, hỏi đáp, đề nghị hỗ trợ chuyên gia tư vấn, hoặc chia sẻ, quảng bá kết quả nghiên cứu mà các tỉnh đã làm để tránh trùng lắp, lãng phí. Do đó, “khi khai trương điểm kết nối cung cầu công nghệ thứ tám trong cả nước tại Hải Phòng thì tôi hi vọng nhiều ở kết nối nguồn thông tin”. “Kết nối các nguồn thông tin về cung cầu quan trọng hơn là hô hào chúng ta cùng làm nghiên cứu này, nghiên cứu kia đi”, ông Tuấn nói.
Cùng chung tầm nhìn về KH&CN
Các tỉnh không chỉ có nhu cầu liên kết trong việc thực hiện các nhiệm vụ KH&CN thường xuyên, mà cần có các chương trình liên kết để thực hiện những chương trình, đề tài nghiên cứu lớn để tạo ra một số sản phẩm có tác động quan trọng đến sự phát triển kinh tế của địa phương và vùng. Với các hoạch định phát triển khoa học và công nghệ mang tính chiến lược đối với vùng thì cần “Bộ giúp đặt hàng các viện nghiên cứu lớn, để nghiên cứu cho địa phương. Hơn là mỗi tỉnh tự bỏ ra một ít tiền, để cùng làm nghiên cứu về một cái gì đó”, ông Tuấn kiến nghị.
Vấn đề mà ông Bạch Ngọc Chiến quan tâm và tin rằng có ý nghĩa đối với hiệu quả của sự liên kết vùng, là “cần có vai trò của Bộ KH&CN trong sự điều phối giữa các tỉnh”. Ông cũng cho rằng, không chỉ giải quyết những vấn đề trước mắt, ĐBSH cần chuẩn bị cho một tương lai dài hơn và bền vững hơn bằng việc thúc đẩy một chiến lược chung cho phát triển giáo dục STEM. “Chúng ta đã có 12 lần giao ban, nếu như lần giao ban thứ nhất chúng ta đặt ra yêu cầu triển khai giáo dục STEM thì 12 năm sau đã khác. Vì thế, phải thúc đẩy giáo dục STEM, để có một thế hệ dễ tiếp thu tri thức, có sự sáng tạo”.
Thứ trưởng Bộ KH&CN Phạm Công Tạc nhận xét, “sau ba lần giao ban, Hội nghị ngày càng đi vào thực chất hơn, bàn đến những vấn đề gần gũi với cuộc sống hơn, có hơi thở cuộc sống hơn”. Hội nghị lần này bàn tới việc nâng cao hiệu quả đầu tư, sở hữu trí tuệ, chuỗi giá trị, về vấn đề liên kết giữa các tỉnh thành, liên kết giữa các viện, trường, doanh nghiệp, cơ quan quản lý… là những tín hiệu tích cực cho sự phát triển của KH&CN của vùng. Vấn đề xây dựng Chương trình liên kết giữa các sở KH&CN trong công tác quản lý nhà nước; hình thành và phát triển sản xuất một số sản phẩm chủ lực của vùng; xây dựng và tạo lập tài sản sở hữu trí tuệ các sản phẩm chủ lực của vùng, của địa phương là nội dung chính đã được đặt ra từ hội nghị giao ban KH&CN vùng ĐBSH lần thứ XI tại Ninh Bình vào năm 2017.
Những vấn đề mà các đại biểu thảo luận tại Hội nghị này cũng đã được Bộ trưởng Bộ KH&CN Chu Ngọc Anh đặt ra tại Hội nghị Giám đốc sở KH&CN địa phương do Bộ KH&CN tổ chức tại Hà Nội ngày 15/3 vừa qua. Bộ trưởng đã yêu cầu các sở KH&CN địa phương tăng cường tương tác, phối hợp với các sở, ngành khác, tiếp tục phát huy hiệu quả liên kết vùng trong tập trung hỗ trợ các chuỗi sản xuất – kinh doanh. Đặc biệt, mỗi địa phương cần nắm vững tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp KH&CN và startup đổi mới sáng tạo trong địa bàn của mình, đồng thời tìm hiểu thông tin về các viện, trường, các tổ chức trung gian ở cả địa phương và trung ương, các doanh nghiệp, chuyên gia quốc tế, để “tùy theo đầu việc mà đặt ra các tương tác với từng bên”.
Hải Phòng là một trong số không nhiều địa phương thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo với mục tiêu đến 2020 hỗ trợ được khoảng 100 ý tưởng về khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, trong số đó, phải có khoảng 20 ý tưởng phát triển được thành doanh nghiệp KHCN. Hải Phòng đã xây dựng một cổng thông tin về khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo, có hội đồng xét duyệt và hỗ trợ đầu tư, còn một số doanh nghiệp thành công tại đây cũng đã mở ra những không gian café chuyên bàn chuyện khởi nghiệp tương tự như các co working space nhằm hỗ trợ cho những người mới bắt đầu. Cái mà Hải Phòng vẫn thiếu lúc này là một lực lượng chuyên gia hỗ trợ khởi nghiệp, thông tin về các quỹ đầu tư, thông tin về tình hình thực hiện ở các tỉnh, vùng khác và thậm chí cả quốc tế. Do vậy, “cần có cơ sở dữ liệu hệ thống thông tin trong vùng [về khởi nghiệp], để các tỉnh đều kết nối và tìm thông tin dễ dàng. Mặt khác, khi chúng ta liên kết lại, có đủ ý tưởng, đủ thông tin, đủ sức thu hút các nhà đầu tư, khi đó mới có thể thu hút được các quỹ đầu tư”, ông Dương Ngọc Tuấn đề xuất. |