Bài học từ một số địa phương cho thấy, KH&CN sẽ trở thành động lực quan trọng cho sự phát triển kinh tế xã hội khi thực hiện nhiệm vụ sát với yêu cầu cụ thể của địa phương.
Tuy nhiên, quá trình thực hiện nhiệm vụ quản lý KH&CN cũng đặt ra yêu cầu khiến các địa phương phải chủ động sáng tạo trong quản lý khoa học và đề nghị bổ sung các hướng dẫn, điều chỉnh về cơ sở pháp lý. Đó là một số vấn đề đặt ra tại Hội nghị Giám đốc sở KH&CN ngày 15/3 vừa qua do Bộ KH&CN tổ chức tại Hà Nội.
Tìm và giải quyết “đề bài” từ thực tế sản xuất
Khi nhắc tới các kết quả thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu, ứng dụng KH&CN vào sản xuất, thông thường người ta hay nghĩ tới những tỉnh, thành phố có tiềm lực kinh tế mạnh và nguồn nhân lực chất lượng cao như TP Hồ Chí Minh, Hà Nội, hay Đà Nẵng. Tuy nhiên, minh chứng từ một số địa phương cho thấy, điểm mấu chốt đầu tiên chưa hẳn đã là vốn tài chính hay nhân lực, mà là nhận thức – xác định rõ ràng nhiệm vụ đặt ra cho KH&CN là gì để đáp ứng yêu cầu của sản xuất nông nghiệp, công nghiệp mà tỉnh mình đặt ra. Câu chuyện ở Lâm Đồng và Thanh Hóa cho thấy rõ ràng điều đó.
Hiện nay, Lâm Đồng được biết tới là một trong những địa phương đi đầu trong ứng dụng KH&CN vào nông nghiệp, số lượng doanh nghiệp được công nhận là doanh nghiệp nông nghiệp công nghệ cao chiếm tới 30% tổng số của cả nước. Ứng dụng công nghệ cao vào giúp nâng cao năng suất cây trồng từ 30-50%, có khoảng 50.000 ha đất canh tác ứng dụng công nghệ cao (chiếm 17,7% diện tích đất canh tác), trong đó 12.000 ha đạt trên 500 triệu đồng/ năm, thậm chí có nhiều mô hình đạt doanh thu trên 3 tỉ đồng/ năm. Tuy nhiên, để việc ứng dụng KH&CN trở nên phổ biến ở quy mô đại trà và mang tính “đồng bộ” như hiện nay, ngành KH&CN đã có những bài học rút ra từ việc tham gia vào các quy hoạch, tổ chức sản xuất ở địa phương, theo bà Võ Thị Hảo, giám đốc Sở KH&CN Lâm Đồng. Cụ thể, ngay từ trước 2005, khi một số loại cây trồng vật nuôi đã được xác định là có lợi thế cạnh tranh, ngành KH&CN đã tập trung triển khai một số đề tài điều tra cơ bản đề tạo cơ sở cho việc hoạch định chính sách trong triển khai phát triển nông nghiệp theo hướng công nghệ cao như xây dựng bản đồ đất nông nghiệp và bố trí cây trồng hợp lý, điều tra mức độ đa dạng sinh học trên toàn tỉnh, xây dựng bản đồ quản lý nước ngầm. Các bản đồ này thậm chí có mức độ chi tiết đến tận… cấp xã. Đồng thời, Sở cũng xác định tìm các công nghệ, kỹ thuật có khả năng ứng dụng triển khai tại địa phương.
Trước những căn cứ khoa học đã được xác định như vậy cho sự phát triển của sản xuất nông nghiệp trong tỉnh, UBND tỉnh Lâm Đồng đã ban hành một Chương trình phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao và Tỉnh ủy cũng ban hành một Nghị quyết chuyên đề về phát triển nông nghiệp công nghệ cao cho giai đoạn sau 2005. Điều đó cho thấy sự ý thức, xác định rõ ràng vai trò, vị trí của KH&CN ngay từ lúc xây dựng mô hình phát triển ở Lâm Đồng, theo bà Võ Thị Hảo. Và cho tới hiện nay, khi tình hình sản xuất và nhu cầu của thị trường về sản phẩm nông nghiệp đang có chiều hướng thay đổi, thì Tỉnh ủy lại đặt ra đề bài cho ngành KH&CN phải đặt hàng “các nhà khoa học vào đánh giá lại [sản xuất nông nghiệp công nghệ cao], được và chưa được ở những điểm gì, từ đó đưa ra bài học kinh nghiệm và đề xuất, để hướng tới [sản xuất nông nghiệp] toàn diện và bền vững chứ không chỉ là chú trọng vào tăng trưởng nữa”, bà Hảo nói.
Tương tự Lâm Đồng, hiện nay tỉnh Thanh Hóa đã xác định và đưa vào Nghị quyết về việc KH&CN là một trong bốn khâu đột phá cho phát triển kinh tế xã hội. Nhưng để trở thành “đột phá”, ngành KH&CN của tỉnh phải đáp ứng được cả hai chiều: chiều thay đổi nhận thức của lãnh đạo tỉnh về vai trò của KH&CN và ngược lại, phải xác định được trong bối cảnh kinh tế xã hội ở địa phương có những bài toán gì đang đặt ra cho ngành KH&CN địa phương để tham gia giải quyết một cách có hiệu quả, theo ông Nguyễn Ngọc Túy, giám đốc Sở KH&CN tỉnh Thanh Hóa. “Chúng tôi là tỉnh đầu tiên trong cả nước xây dựng và thực hiện được đề án phát triển KH&CN (tới năm 2020), trong đó xác định được 6 chương trình KH&CN trọng điểm của tỉnh bám sát theo các trụ cột kinh tế xã hội”, ông Túy cho biết. Tỉnh Thanh Hóa thường bố trí mức kinh phí cho ngành KH&CN cao hơn 2,3 đến 2,4 lần so với mức phân bố kinh phí ngân sách khoa học của Trung ương giao. “Ngược lại, chúng tôi cũng phải làm cho xứng đáng với đồng tiền bát gạo đầu tư của một địa phương mà vẫn còn chưa cân đối được thu chi. Chúng tôi phải chi tiêu sao cho hiệu quả”, ông Túy nói.
Hiệu quả như ông Túy nói thể hiện rõ nét qua những ví dụ điển hình như quá trình thẩm định công nghệ trong các dự án đầu tư trên toàn tỉnh Thanh Hóa. Hiện nay 100% các dự án đầu tư đều được thẩm định công nghệ. Tùy thuộc vào quy mô và tính chất phức tạp của các dự án cần phải thẩm định, Sở KH&CN Thanh Hóa sẽ mời các chuyên gia trong tỉnh hoặc thậm chí là các nhà khoa học giàu uy tín trong nước để khảo sát, đánh giá. Về mặt hỗ trợ nâng cao năng lực KH&CN cho các doanh nghiệp, tỉnh ban hành Nghị quyết riêng (số 81/2017/NQ-HĐND) về chính sách khuyến khích phát triển KH&CN trở thành khâu đột phá trong phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Thanh Hóa đến năm 2020 và trong vòng hơn một năm qua đã thẩm định hồ sơ, hỗ trợ được cho 28 dự án nghiên cứu, đổi mới, ứng dụng KH&CN với kinh phí hỗ trợ lên tới 29 tỉ đồng (với điều kiện là nghiên cứu tạo ra được sản phẩm có giá trị kinh tế xã hội).
Thực tiễn đặt ra nhu cầu điều chỉnh chính sách
Tuy nhiên, trong quá trình “bám sát” các hoạt động sản xuất ở địa phương, hỗ trợ cụ thể cho các doanh nghiệp, các Sở KH&CN địa phương cũng vấp phải một số vướng mắc và đưa ra thảo luận. Cụ thể, việc thẩm định công nghệ trong tỉnh hiện nay chưa có những quy định rõ ràng về mặt tài chính để chi cho mời chuyên gia vào thẩm định. “Kinh phí thẩm định công nghệ không biết lấy ở đâu ra. Đối với các nhiệm vụ thẩm định đơn giản, cần chuyên gia trong tỉnh thì chúng tôi có thể tự triển khai được, nhưng với các nhiệm vụ thẩm định công nghệ phức tạp cần chuyên gia của trung ương thì cần bố trí kinh phí. Mà hàng năm có tới hàng trăm hội đồng thẩm định như vậy. Chúng tôi báo cáo với bên tài chính thì họ bảo lấy trong kinh phí sự nghiệp khoa học được phân bổ hằng năm cho sự nghiệp KHCN, như thế lại làm giảm mất kinh phí dành cho việc triển khai các đề tài dự án. Đây vẫn là vướng mắc của chúng tôi muốn được trao đổi cùng các địa phương và các vụ chức năng để tháo gỡ”, ông Nguyễn Ngọc Túy cho biết. Nhận định Sở KH&CN đã thẩm định các dự án công nghệ là điều mà ngay cả ở cấp trung ương cũng còn khó khăn khi xử lý, Bộ trưởng Bộ KH&CN Chu Ngọc Anh yêu cầu các vụ chức năng xem xét các quy định, hành lang pháp lý hiện nay cho việc thẩm định công nghệ và đưa ra phương án giải quyết.
Liên quan đến CMCN 4.0, Bộ trưởng Chu Ngọc Anh cho rằng các Sở nên chủ động tham mưu cho tỉnh tùy theo tình hình cụ thể xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin để chia sẻ phục vụ cộng đồng xã hội, đơn cử như kinh nghiệm từ Phú Yên “trong vòng nửa tháng đã số hóa chỉ dẫn địa chỉ rõ ràng, chính xác”. Khi chính quyền các tỉnh được tham mưu đúng đắn và xây dựng thành công nền tảng chia sẻ dữ liệu phù hợp thì bản thân các doanh nghiệp cũng sẽ “vào cuộc, vì nhìn vào nền tảng đó là họ thấy được thông tin mình cần”.
Trong khi đó, vấn đề mà một số tỉnh đang gặp phải và đề xuất thảo luận tìm phương án tháo gỡ liên quan đến quá trình đưa Quỹ Phát triển KH&CN của tỉnh vào hoạt động. Quỹ Phát triển KHCN cấp tỉnh đã được nhiều tỉnh thành lập nhằm cấp kinh phí cho việc thực hiện các nhiệm vụ KH&CN ở nhiều tỉnh, tài trợ toàn bộ hoặc một phần cho các nhiệm vụ KH&CN và cho vay với lãi suất thấp và bảo lãnh vốn vay nhưng đại diện ngành KH&CN đều cho biết khả năng cho vay và bảo lãnh vốn vay của quỹ là rất khó khăn. Câu chuyện của tỉnh Bình Dương trong việc thử đưa ra các giải pháp mang tính sáng tạo cho thấy rõ ràng vấn đề này.
Quỹ Phát triển KH&CN tỉnh Bình Dương được thành lập từ năm 2008 với vốn điều lệ là 15 tỉ đồng, đến năm 2016 được HĐND tỉnh chấp thuận bổ sung 100 tỉ đồng. Quỹ có nguồn thu hoạt động từ ngân sách cấp thường xuyên, thu từ lãi cho vay còn lại sau khi trừ phí ủy thác, thu lãi tiền gửi. Tuy nhiên, trong các nhiệm vụ đề ra ở trên, đến nay Quỹ phát triển KH&CN tỉnh Bình Dương mới chỉ thực hiện được hai nhiệm vụ là cấp kinh phí thực hiện các nhiệm KH&CN cấp tỉnh và cho vay ưu đãi, còn nhiệm vụ tài trợ, bảo lãnh vốn vay chưa thực hiện được. “Vì vướng nguyên tắc bảo toàn vốn, nếu cho tài trợ thì sẽ mất vốn. Và cũng chưa có hướng dẫn chi tiết về tài trợ”, ông Nguyễn Quốc Cường, giám đốc Sở KH&CN tỉnh Bình Dương cho biết.
Bản thân việc cho vay của Quỹ Phát triển KH&CN tỉnh Bình Dương cũng đã là một sự mạnh dạn “có máu liều”, theo ông Cường, bởi vì hầu như nhiều tỉnh đều không dám cho vay. Tại Hội nghị, hai đại diện của Sở KH&CN Hải Phòng và Hà Nội đều cho biết không dám ký cho vay vì sợ thất thoát vốn của nhà nước.
Quy trình xét duyệt, cho vay cũng đòi hỏi sự tham gia phối hợp, trao đi đổi lại của rất nhiều bên (sở KH&CN, Quỹ Phát triển KH&CN, sở Tài chính) ở địa phương, bởi việc này là chưa có tiền lệ và cũng chưa có hướng dẫn thực hiện chung trong cả nước. “Khi [các đơn vị] đã bàn bạc và thống nhất phương án cho vay, thì hợp đồng đầu tiên cũng khó khăn lắm, ký xong rồi không thực hiện được, lại phải sửa hợp đồng. Nên về sau hợp đồng phải có tên của ông giám đốc Sở KH&CN và giám đốc Quỹ ở bên A”, ông Cường kể. Và hiện nay, Quỹ Phát triển KH&CN cấp tỉnh vẫn chưa được xác định loại hình gì, Sở Tài chính và Sở Nội vụ Bình Dương tham mưu xếp vào loại hình hoạt động tổ chức KH&CN khác nhưng Sở KH&CN tỉnh Bình Dương vẫn đang chờ hướng dẫn từ Trung ương. Chính vì vậy, mặc dù nhu cầu vay vốn cho phát triển KH&CN của các doanh nghiệp ở Bình Dương là rất nhiều, nhưng vì thủ tục rườm rà, số doanh nghiệp có thể ở lại tới khâu cuối cùng của quá trình vay vốn lại không đáng bao nhiêu. “Tháng nào Quỹ cũng tiếp doanh nghiệp lên, nhưng 10 doanh nghiệp lên thì 5 doanh nghiệp quay lại, sau khi hướng dẫn xong còn 3 doanh nghiệp, cuối cùng chỉ còn 1 doanh nghiệp vay”.
Trên thực tế, mô hình hoạt động của Quỹ phát triển KH&CN các địa phương không phải là những nơi duy nhất đang gặp khúc mắc, mà thậm chí cơ chế tài chính cho các quỹ phát triển KH&CN ở tầm quốc gia như Quỹ Phát triển KH&CN quốc gia NAFOSTED và Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia NATIF vẫn vấp phải “độ vênh về cơ chế giữa hoạt động Luật KH&CN và Luật Ngân sách”, theo nhiều ý kiến tại Hội nghị Tổng kết công tác năm 2018 khối Ban và Quỹ (Bộ KH&CN) ngày 17/12/2018. Hiện nay, mô hình của NAFOSTED và NATIF vẫn chưa được phân biệt một cách rõ ràng là “quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách hay là đơn vị sự nghiệp”. Bộ trưởng Chu Ngọc Anh cũng cho biết, vấn đề mô hình của các quỹ KHCN cấp quốc gia vẫn phải được bàn thảo giữa các bộ ngành, sau đó sẽ trình Chính phủ và Quốc hội để có những văn bản hướng dẫn thực hiện cụ thể.
Doanh nghiệp là trung tâm của các chính sách hỗ trợ
Đánh giá chung về tình hình thực hiện các nhiệm vụ KH&CN ở các địa phương, Bộ trưởng Chu Ngọc Anh nhận xét, các Sở đã có sự “chủ động, sáng tạo rất lớn” trong việc thực hiện nhiệm vụ, tham gia vào công tác quy hoạch, lập kế hoạch ở địa phương, đánh giá xác định được nhu cầu của người dân và doanh nghiệp. Trong thời gian tới, Bộ trưởng đề nghị, “các tư lệnh ngành KH&CN” ở địa phương phải tiếp tục khẳng định KH&CN không chỉ là “gắn với kinh tế xã hội”, mà chuyển sang “phục vụ kinh tế xã hội”, và thời gian tới đây “liệu có thể dẫn dắt cùng phát triển không”? Ở tầm quốc gia, trong báo cáo Việt Nam 2035, KH&CN và đổi mới sáng tạo đã được xác định là trụ cột cho phát triển của đất nước, còn ở các địa phương, ngành KH&CN phải tham mưu cho các cấp ủy về vai trò của KH&CN với phát triển kinh tế xã hội. Bởi, “dư địa cho sự phát triển chính là KH&CN, KH&CN không còn nói chung chung khẩu hiệu là động lực, quốc sách nữa, mà nó phải ở ngay trung tâm của kinh tế”, Bộ trưởng Chu Ngọc Anh nói.
Trong hệ thống đổi mới sáng tạo, doanh nghiệp phải được xác định là trung tâm, nhưng đồng thời vai trò của các viện, trường không hề giảm xuống. Ngành KH&CN phải xác định cụ thể các phương thức thúc đẩy tương tác giữa doanh nghiệp với viện, trường và các cấu phần khác của hệ sinh thái. Trong đó, điều quan trọng là “hệ sinh thái phải kéo được các doanh nghiệp vừa và nhỏ”, Bộ trưởng nhấn mạnh.
Do vậy, các vấn đề ngành KH&CN phải xác định gồm: một là xác định các vấn đề kinh tế xã hội hiện nay trong địa bàn cần những công cụ tri thức nào cũng như nguồn nhân lực có khả năng giải quyết; thứ hai là xác định công nghệ từ các viện trường hoặc thậm chí là công nghệ từ nước ngoài để chuyển giao; thứ ba là hỗ trợ để hoàn thiện mô hình công nghệ và sản xuất kinh doanh mang tính tối ưu; thứ tư là phải xác định các tiêu chuẩn để đáp ứng với nhu cầu của thị trường; thứ năm là tổng kết, nhìn lại để đưa ra đánh giá thực chất thực tiễn ở địa phương, để thấy đâu là sản phẩm chủ lực, thực sự mới, có chất lượng, năng suất cao, thiết thực và phù hợp với năng lực, điều kiện của địa bàn để tập trung hỗ trợ.
Tất cả các khâu này đều cần nhà quản lý có tư duy giống như doanh nghiệp để đưa ra giải pháp, cẩm nang tư vấn khả thi - tùy theo trình độ của doanh nghiệp trên địa bàn mà tư vấn. Chẳng hạn, với “những ông lớn thì tư vấn chính sách cho họ thành lập trung tâm nghiên cứu; với doanh nghiệp nhỏ và vừa thì cần tư vấn chuyển giao công nghệ; hoặc đánh giá xem những doanh nghiệp lớn có thể hỗ trợ gì cho các doanh nghiệp nhỏ”, Bộ trưởng Chu Ngọc Anh đưa ví dụ.
Bộ trưởng cũng yêu cầu các Sở KH&CN địa phương tăng cường tương tác, phối hợp với các sở, ngành khác, tiếp tục phát huy hiệu quả liên kết vùng trong tập trung hỗ trợ các chuỗi sản xuất – kinh doanh. Đặc biệt, mỗi địa phương cần nắm vững tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp KH&CN và startup đổi mới sáng tạo trong địa bàn của mình, đồng thời tìm hiểu thông tin về các viện, trường, các tổ chức trung gian ở cả địa phương và trung ương, các doanh nghiệp, chuyên gia quốc tế, để “tùy theo đầu việc mà đặt ra các tương tác với từng bên”. |