"Tôi đã gặp rất nhiều nhà khoa học trẻ và họ đã nói rằng nếu chúng ta không có văn hóa thất bại thì chắc chắn không thể thành công".
"Làm khoa học luôn luôn rủi ro. Nếu ai đó nói rằng cứ làm khoa học là phải thành công, giao 100 đề tài là phải thành công cả trăm đề tài là rất giáo điều. Làm khoa học mà thành công được vài chục phần trăm đã là tốt rồi".
Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Nguyễn Quân đã chia sẻ như thế với báo chí trước thềm Xuân mới về sự kỳ vọng vào các nhà khoa học trẻ. Bộ trưởng cho rằng, chính sự đam mê, mạo hiểm và dám chấp nhận thất bại sẽ là yếu tố giúp các nhà khoa học trẻ tiến gần với thành công hơn.
Kỳ vọng vào chính sách mới
Thưa bộ trưởng, năm 2015 ghi nhận nhiều kết quả ấn tượng những đóng góp của khoa học và công nghệ vào sự phát triển kinh tế xã hội, trong đó năng suất yếu tố tổng hợp (TFP) ước tính đóng góp tới 39,92% tăng trưởng GDP, tức là gần 2/5 mức tăng của GDP.
Đây cũng là năm chỉ số đổi mới sáng tạo của Việt Nam tăng 19 bậc trên bảng xếp hạng GII, đứng thứ 52/141 nền kinh tế, top 3 trong ASEA. Bộ trưởng nhìn nhận như thế nào về con số này?
- Bộ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Quân: Tôi cho rằng con số này rất đáng hài lòng, bởi nếu không có kết quả này thì chúng ta không được cộng đồng quốc tế xếp hạng cao về chỉ số đổi mới sáng tạo. Chính TFP là biểu tượng của đổi mới sáng tạo, là ghi nhận đóng góp của KHCN trong tăng trưởng kinh tế của một quốc gia.
Trong 5 năm tới có thể nói là kỳ vọng và cũng là mong muốn bởi chúng ta mới đang xếp hạng thứ 52/141 nền kinh tế, còn cách Malaysia và Singapore thứ 7 với khoảng cách khá xa (cách Malaysia hơn 20 bậc và Singapore tới 45 bậc).
Để vượt qua khoảng cách này rất khó, tuy nhiên chúng tôi hy vọng với chính sách mới của Luật KH&CN 2013, các Nghị định của Chính phủ, thông tư... được áp dụng vào thực tiễn chắc chắn sẽ nâng cao hiệu quả hoạt động KH&CN và sẽ nâng cao thành tựu đóng góp của KH&CN vào kinh tế, đánh giá cao hơn.
Tuy nhiên, tôi cho rằng khó khăn trước mắt của chúng ta còn rất lớn, nhất là khi chúng ta hội nhập, thách thức đối với KH&CN rất lớn nhất là khi các bộ, ngành không quán triệt được tinh thần của Luật KH&CN, không quyết liệt đưa luật vào cuộc sống thì chúng ta cũng chỉ loanh quanh ở thứ hạng như hiện nay.
Trong năm qua, không ít sự kiện liên quan đến các nhà khoa học trẻ đã được tổ chức, trong đó lần đầu tiên Bộ Khoa học và Công nghệ tổ chức buổi gặp mặt Thủ tướng với các nhà khoa học trẻ tiêu biểu.
Không lâu sau đó câu chuyện Hà Đông - tác giả của trò chơi Flappy bird ngồi trà đá ngồi cùng CEO Google đã thu hút sự chú ý của dư luận. Cũng không ít nhà khoa học trẻ của Việt Nam đã được thế giới biết đến và ngỏ lời mời họ đến làm việc. Ông đánh giá như thế nào về khả năng của trí thức trẻ Việt?
- Tôi rất kỳ vọng vào giới trẻ Việt Nam bởi trong thời gian qua và đặc biệt là năm vừa rồi họ đã chứng tỏ được bản lĩnh và năng lực sáng tạo của họ. Còn nói đến lý do họ không muốn quay về không phải ngành KH&CN trong nước không có cơ hội cho họ.
Vấn đề ở đây vẫn là môi trường làm việc và chính sách đãi ngộ. Nếu họ về nước mà cơ sở vật chất quá nghèo nàn, đồng nghiệp lại thiếu những người cùng chí hướng, cùng tư duy, lương bổng, thu nhập quá thấp không thể tự chăm lo để họ dành tối đa cho hoạt động nghiên cứu thì rất khó để thu hút họ trở về.
Chính vì thế chúng tôi đặt ra mục tiêu trong năm 2016 sẽ đưa vào thí điểm Viện nghiên cứu cao cấp theo mô hình viện KIST của Hàn Quốc. Với mô hình này V-KIST có thể không bằng thì cũng gần bằng các điều kiện của nước ngoài. Chúng tôi muốn có Viện này để cuốn hút các nhà khoa học người Việt ở nước ngoài về nước.
Theo đó, V-KIST đang được xem là Viện mẫu thí điểm, ở đấy sẽ áp dụng cơ chế quản lý của Viện KIST của Hàn Quốc. Chúng tôi dự định sẽ mời ông cựu chủ tịch Viện KIST sang làm Viện trưởng V-KIST của chúng ta.
Bởi vì ông ấy đã quản lý viện KIST bao nhiêu năm nên rất có kinh nghiệm. Khi thuê làm viện trưởng, các chế độ làm việc tương đương ít nhất là mức độ yên tâm làm khoa học phải được gần như Hàn Quốc. Có thể chúng ta áp dụng mức lương thấp hơn nhưng với chi phí ở Việt Nam từ việc ăn uống sinh hoạt nhà cửa, xe cộ, chi phí ở Việt Nam rẻ hơn ở nước ngoài rất nhiều nên có thể khiến các nhà khoa học Việt đang làm việc ở nước ngoài thấy đủ điều kiện để họ có thể quay trở về.
Tại đây cũng sẽ tạo cho họ môi trường học thuật. Tức là các nhà khoa học làm việc ở đây phải tương đương về trình độ, cùng quan điểm khoa học, tư duy khoa học.
Thứ ba nữa là phải có điều kiện làm việc tối thiểu. Một nhà khoa học cơ bản và khoa học ứng dụng không thể không có phòng thí nghiệm và trang thiết bị trong phòng thí nghiệm ấy cũng phải tương đương với các nước khác.
Người ta không thể đang ở nước ngoài làm việc với một thiết bị trình độ cao nhưng về đây lại làm việc với một chiếc máy lạc hậu cách đây 5-7 thế hệ. Rồi lại không có người phục vụ đến nơi đến chốn, máy hỏng không biết sửa ở đâu…
Tất cả những điều này sẽ sẽ được khắc phục để tạo cho cơ quan khoa học một không khí hoàn toàn khác. Đó chính là lý do chúng tôi rất muốn Viện V-KIST này được xây dựng và đi vào hoạt động.
Tuy nhiên không phải ai cũng thấy được điều này. Chính vì thế, hiện cơ chế tài chính của Viện này chưa ban hành được. Họ cứ nói rằng tại sao ở Viện V-KIST chế độ lương bổng lại cao như vậy, cần phải theo đúng quy định hiện hành của nhà nước.
Nhưng nếu chỉ theo quy định hiện hành thì không cần thiết phải có V-KIST. Chúng ta đang có hàng trăm viện đang vận hành theo quy định hiện hành và hiệu quả của nó thì chúng ta đều biết. Trong khi chúng ta đang muốn thu hút các nhà khoa học đang làm việc ở nước ngoài về đây cống hiến thì không thể lại hình thành một viện giống như các viện chúng ta đang có. Nếu như vậy thì họ đã về các viện kia để làm chứ không cần V-KIST ra đời.
Thực tế những nhà khoa học đó đã ra đi từ chính các viện kia bởi không đáp ứng được các điều kiện cần thiết cho họ.
Hiện chúng tôi đang kiên trì thuyết phục Bộ Tài chính và báo cáo với Thủ tướng để quy chế tài chính của viện V-KIST được ban hành, từ đó thì mới có thể làm được các bước tiếp theo.
Bởi vì nếu không có cơ chế tài chính thì mọi việc sẽ vô nghĩa, kể cả có đổ cả nghìn tỉ vào việc xây dựng viện này nhưng không có những người giỏi về làm thì không có ý nghĩa gì. Viện này có tồn tại và phát triển đúng như kỳ vọng được hay không thì phải có những người giỏi, từ người đứng đầu viện cho tới những người làm trưởng phòng thí nghiệm và những người làm nghiên cứu ở đây.
Chính vì vậy tôi phải chờ quy chế tài chính như một điều kiện tiên quyết. Tôi tin rằng với mô hình Viện này sẽ có nhiều nhà khoa học trẻ, giỏi của Việt Nam mong muốn được làm việc tại đây.
Đừng ràng buộc nhà khoa học bởi các quy định hành chính
Thời gian gần đây hình ảnh Hà Đông ngồi trà đá với CEO Google và sau đó là cuộc gặp với các starup và những người làm công nghệ trong nước cho thấy giới trẻ Việt đang rất được chú ý.
Từ câu chuyện này Bộ trưởng có thể chia sẻ quan điểm của mình về khái niệm “công dân toàn cầu”? Cũng trước thềm Xuân mới, Bộ trưởng có nhắn nhủ gì với các trí thức, nhất là các nhà khoa học trẻ?
- Tôi rất kỳ vọng vào giới trẻ Việt Nam. Những người như Nguyễn Hà Đông là một ví dụ rất điển hình cho việc họ chẳng cần có đề tài dự án cấp nhà nước nhưng khởi nghiệp rất thành công.
Nhiều người cứ nói rằng phải là những nhà khoa học có bằng cấp cao rồi chủ nhiệm rất nhiều đề tài dự án thì mới có thể thành công. Đối với giới trẻ tôi tin là họ có thể thành công trong những điều kiện mà chúng ta không thể ngờ được.
Trong lịch sử cũng có nhiều trường hợp, nhiều ví dụ tương tự như vậy. Tôi cũng nghĩ là đối với giới trẻ, và những người làm khoa học nói chung cần cái họ cần nhất là tự do sáng tạo. Chúng ta đừng ràng buộc họ bởi những quy định rất hành chính.
Ngày nay với thế giới phẳng, những công dân toàn cầu đương nhiên có quyền làm khoa học ở bất kỳ nơi nào trên thế giới.
Nguyễn Hà Đông thành công mặc dù bạn ấy chưa hề bước chân ra làm việc cho một tập đoàn đa quốc gia nào. Từ câu chuyện này tôi nghĩ rằng làm khoa học không cứ là phải trong giờ hành chính. Tôi tin là Nguyễn Hà Đông cũng phải mất nhiều đêm để làm Plappy Bird không phải do viện nào giao nhiệm vụ hay phải đến cơ quan đúng giờ.
Làm khoa học tương đối tự do, ngẫu hứng, chủ yếu là đam mê, có ý tưởng và dành toàn bộ thời gian, sức lực và tiền bạc để theo đuổi đến cùng. Cũng có thể họ sẽ thất bại nhưng cũng nên động viên giới trẻ là phải chấp nhận thất bại.
Tôi đã gặp rất nhiều nhà khoa học trẻ và họ đã nói rằng nếu chúng ta không có văn hóa thất bại thì chắc chắn không thể thành công. Làm khoa học luôn luôn rủi ro. Nếu ai đó nói rằng cứ làm khoa học là phải thành công, giao 100 đề tài là phải thành công cả trăm đề tài là rất giáo điều. Làm khoa học mà thành công được vài chục phần trăm đã là tốt rồi.
Ngay cả Hoa Kỳ theo thống kê chỉ có 20% đề tài nghiên cứu của họ là thành công và được ứng dụng. Còn một số đề tài thành công nhưng chưa ứng dụng được và cũng nhiều đề tài thất bại. Nói như vậy là để thấy rằng chúng ta phải chấp nhận văn hóa thất bại trong khoa học.
Người ta cũng vẫn nói thất bại trong khoa học cũng chính là thành công, vì khi đó sẽ giúp những người đi sau tránh không đi vào vết xe đổ của mình, tránh nghiên cứu những vấn đề không áp dụng được trong thực tiễn. Thậm chí ngay cả trong thất bại cũng le lói những thành công vì họ biết được đi theo hướng này không đúng thì phải đi theo hướng khác.
Biết rằng đầu tư đến mức này thất bại thì phải đầu tư ở mức khác, hay biết rằng làm sản phẩm nay có thể không được chấp nhận nhưng nếu thay đổi một chút biết đâu thị trường sẽ đón nhận. Như vậy chính những thất bại ấy cũng là tiền đề cho thành công cho tương lai của họ.
Vì vậy với giới trẻ tôi chỉ mong họ hãy hết sức tự chủ, chấp nhận thất bại và tận dụng tối đa cơ hội có thể có thể sáng tạo một cách tự do.
Nhân dịp năm mới tôi muốn gửi tới các nhà khoa học nói chung, nhà khoa học trẻ nói riêng lời chúc sức khỏe, thành công và bày tỏ sự kỳ vọng, tin tưởng vào những đóng góp của họ cho nền khoa học công nghệ nước nhà.
Xin trân trọng cảm ơn Bộ trưởng!