Nói đến anh Sơn “bống bớp”, những người làm trong ngành thủy sản ở Nam Định ai cũng biết. Từng bị cho là gàn khi có ý tưởng “bắt” cá bống bớp đẻ theo ý muốn, ấy thế mà anh Sơn lại có thu nhập hơn 5 tỷ đồng mỗi năm nhờ việc ương giống thành công loài cá đặc sản này.
Sinh ra từ vùng quê ven biển thị trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng (Nam Định), từ bé anh Nguyễn Văn Sơn đã quen với việc làm đầm, bãi của gia đình, khi thì làm muối, khi thì nuôi tôm sú theo hình thức quảng canh. Năm 1997, thấy nhiều hộ nuôi cua biển cho thu nhập cao, anh Sơn cũng nuôi thử. Quả nhiên, vài năm đầu, anh Sơn “bội thu” từ nuôi cua biển. Từ hai bàn tay trắng, anh Sơn có tiền rủng rỉnh trong túi.
Nhờ bén duyên với cá bống bớp anh Sơn đã có trong tay nhiều tỷ đồng.
Có đà, anh Sơn chuyển sang ương cua giống và đứng ra thu mua cá, hải sản từ biển cho bà con. Bỏ ra nhiều công sức, tiền bạc nhưng việc ương cua giống bị thất bại không chỉ một mà vô số lần. Cùng với công việc buôn bán không thuận lợi, số tiền anh Sơn tích lũy được cứ hao dần. Đỉnh điểm, đến năm 2002, anh Sơn phải bán căn nhà ở trung tâm chợ để trả nợ cho bà con.
Cùng với ương cá giống, anh sơn còn nuôi và đứng ra thu mua cá bống bớp thương phẩm.Cá bống bớp thương phẩm sau khi thu mua được công nhân của anh Sơn thả bể chứa trước khi xuất bán.
“Sau cú ngã ấy, tôi rất hoang mang nhưng vẫn không muốn bỏ cuộc. Sinh ra ở làng biển, có vùng bãi triều rộng lớn rất thuận lợi cho việc nuôi trồng thủy, hải sản, sống chết thế nào tôi cũng phải gắn bó với nghề. Vấn đề là mình phải tìm con nuôi phù hợp. Sau nhiều ngày tính toán, suy nghĩ, tôi quyết định đầu tư nuôi cá bống bớp”, anh Sơn nhớ lại.
Rút kinh nghiệm từ thất bại nuôi cua, anh Sơn quy hoạch ao nuôi cá bống bớp bài bản, bờ ao chắc chắn, không rò rỉ và cẩn thận điều chỉnh đo đếm dư lượng thức ăn, thuốc thú y.
Mỗi bể ương cá bống bớp có thể tích 6m3.
Theo anh Sơn, nuôi cá bống bớp khá thuận lợi, thị trường tiêu thụ cá bống bớp cũng dễ dàng. Bởi, cá bống bớp là đặc sản của địa phương. Thức ăn của chúng là cá tạp xay nhỏ, không sử dụng cám công nghiệp nên chất lượng thịt rất ngon và lành. Khó khăn nhất đối với anh Sơn lúc bấy giờ là tìm nguồn giống cá bống bớp ổn định.
Khu nuôi cá bống bớp bố mẹ được chăm sóc cẩn thận, có đánh thứ tự từng ô.
Anh Sơn cho hay, bống bớp vốn là loài cá nước mặn, đánh bắt tự nhiên ngoài biển. Cá “bén duyên” và gắn bó trong “ao nhà” ở vùng đất Nghĩa Hưng từ nhiều năm trước, khi ngư dân bắt được cá bé sau mỗi chuyến ra khơi đã gom lại nuôi trong ao. Điều đặc biệt là tỉnh Nam Định có 3 vùng nuôi thủy sản mặn lợ, nhưng duy nhất huyện Nghĩa Hưng nuôi thành công cá bống bớp tại vùng bãi triều rộng khu vực cửa sông Ninh Cơ và sông Đáy.
Cận cảnh cá bống bớp bố mẹ
“Để có cá bống bớp thả ao nuôi tôi phải đi đánh bắt con giống tự nhiên ngoài biển về nuôi vỗ thành thương phẩm. Việc nuôi cá bống bớp dựa hết vào tự nhiên như vậy nên có thời điểm bị khan hiếm. Hơn nữa, loại giống này không này không đáp ứng được kích cỡ, số lượng và mùa vụ nên người dân muốn triển khai quy mô nuôi lớn cũng khó. Thậm chí, có lúc phải để trắng ao trong thời gian dài do không chủ động được con giống...”, anh Sơn thổ lộ.
Hiện anh Sơn đang có104 bể ương với1 tấn cá bống bớp bố mẹ, mỗi năm sản xuất hơn 9 triệu con giống.
Nhận thấy việc nuôi cá bống bớp mà không chủ động được con giống sẽ rất bất lợi, anh Sơn nảy ý tưởng nghiên cứu sản xuất giống nhân tạo đảm bảo việc nuôi cá thương phẩm. Khi trình bày kế hoạch, ai cũng khuyên can và bảo anh là gàn. Có người ác ý còn nói không khéo lại phải bán nhà trả nợ như hồi ương cua giống.
Anh Sơn cẩn thận ghi chép lịch ương cá giống, xuất bán cá thương phẩm trên bảng cho tiện theo dõi.
Đã quyết tâm là làm đến cùng, anh Sơn liên hệ với các chuyên gia nuôi thủy sản ở Hải Phòng để tìm ra công nghệ ương giống cá bống bớp. Hồi ấy, cứ vài bữa dân làng ven biển lại thấy mấy ông chuyên gia thủy sản đánh ô tô về nhà anh Sơn, hai bên trao đổi, chỉ trỏ, bàn bạc. Năm 2010, bà con trố mắt khi thấy anh Sơn đầu tư xây dựng trại giống cá bống bớp đầu tư công nghệ hiện đại cả tỷ đồng.
Cá bống bớp thương phẩm được đóng thùng xốp có đục lỗ thông thoáng rồi vận chuyển cho khách.
“Tuy thời gian đầu có kỹ sư hướng dẫn nhưng giữa lý thuyết và thực tế khác xa nhau nên tôi vẫn phải chủ động là chính. Tôi phải vừa mày mò làm rồi ghi chép, nghiên cứu, điều chỉnh phương pháp để giảm chi phí sản xuất. Cả năm trời, tôi cùng ăn, cùng ngủ với cá bống bớp trong trại cá giống, đến nỗi vợ bóng gió nói “yêu cá hơn vợ”. Vợ giận cũng đành chịu, làm cá giống này phải theo sát từng tí một, nếu không tiền tỷ trôi sông lúc nào không hay”, anh Sơn nói.
Cá bống bớp là thực dưỡng, có thể chế biến nhiều món ăn ngon từ cá, trong đó có món cá bống bớp nấu lá nốt rất được ưa thích.
Đến nay trại cá giống của anh Sơn đã đi vào chuyên môn hóa quy trình sản xuất, số lượng cá ương tăng dần từng năm. Với 104 bể ương (mỗi bể có thể tích 6m3), anh Sơn đang nuôi hơn 1 tấn cá bống bớp bố mẹ, mỗi năm sản xuất hơn 9 triệu con giống. Từ sản xuất con giống cá bống bớp anh Sơn có thu nhập hơn 5 tỷ đồng/năm.