Tài sản trí tuệ (TSTT) – vốn được bảo hộ bởi quyền sở hữu trí tuệ (ở Việt Nam bao gồm quyền tác giả, sáng chế, nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp...) có vai trò rất quan trọng vào sự phát triển bền vững của các đơn vị.



Vinatex là một trong những đơn vị đang cần phát triển hệ thống quản trị tài sản trí tuệ. Ảnh: Vinatex

Chưa sử dụng hết tiềm năng

Theo khảo sát của Viện Khoa học Sở hữu trí tuệ (VIPRI), cứ 1 đơn vị TSTT gia tăng sẽ làm cho hiệu quả kinh doanh tăng lên gấp 10 lần. Bên cạnh việc kích thích tăng trưởng kinh tế, việc đảm bảo quyền sở hữu trí tuệ còn góp phần khuyến khích đổi mới sáng tạo (ĐMST), phát triển bền vững cho xã hội. Nhất là trong bối cảnh tự động hóa, trao đổi dữ liệu dựa trên nền tảng công nghệ số và tích hợp các công nghệ thông minh để tối ưu hóa quy trình sản xuất, việc phát triển các TSTT trở thành một trong những nhiệm vụ chiến lược trong việc nâng cao giá trị của các doanh nghiệp, viện, trường ở Việt Nam.

Mặc dù có nhiều lợi ích như vậy, nhưng đóng góp của các ngành công nghiệp có sử dụng sáng chế và thâm dụng tài sải trí tuệ được đánh giá là chưa tương xứng với tiềm năng. Và các doanh nghiệp, viện trường đang gặp không ít khó khăn trong việc tạo dựng, bảo hộ và thương mại hóa loại tài sản đặc biệt này.

Số liệu năm 2010 chỉ ra 32 ngành công nghiệp có sử dụng sáng chế đóng góp 23,79% vào GDP cả nước và tạo ra khoảng 6,4 triệu việc làm, trong đó các ngành thâm dụng TSTT chỉ đóng góp khoảng 4,42% - con số này thực sự rất khiêm tốn so với những nước phát triển ở EU có các ngành thâm dụng TSTT đóng góp 39% tổng GDP, theo báo cáo của Văn phòng Sáng chế châu Âu EPO. Thậm chí, “chúng ta cũng cần thận trọng với những kết quả của Việt Nam nói trên bởi phần lớn công nghệ đang sử dụng là của nước ngoài trong khi thực lực đóng góp của người Việt là rất ít hoặc không đóng góp” - TS Nguyễn Hữu Cẩn, Phó Viện trưởng Viện VIPRI, nhận xét trong một hội thảo về quản trị tài sản trí tuệ đối với doanh nghiệp, cơ sở đào tạo và cơ sở nghiên cứu trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 vào năm ngoái.

Trong khi đó, các doanh nghiệp lại chưa sở hữu nhiều sáng chế. Theo số liệu cơ cấu TSTT của doanh nghiệp từ 2011-2015 của VIPRI, các sáng chế chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ - khoảng 1.19% trong khi kiểu dáng công nghiệp chiếm 17.61% và nhãn hiệu chiếm đến 81.2%. Đây là một điểm bất lợi bởi công nghệ là nền tảng chính của cuộc CMCN4, những sáng chế dựa trên công nghệ cần phải là nhân tố chủ đạo trong việc tạo lập giá trị nội lực của doanh nghiệp, viện, trường chứ không thể phụ thuộc quá nhiều vào các TSTT mang tính thương mại như nhãn hiệu, kiểu dáng.

Hệ số mức độ sử dụng sáng chế trung bình trong nước trong giai đoạn 2009 – 2013 chỉ ở mức 3,07. Trong lĩnh vực công nghiệp chế biến chế tạo là xương sống được ưu tiên phát triển của đất nước thì hệ số mức độ sử dụng sáng chế đang ở mức thấp hơn trung bình, tức là những ngành công nghiệp đó ít sử dụng sáng chế và dường như sự phát triển chủ yếu dựa vào lợi thế so sánh bậc thấp như lao động giản đơn, vốn vay, tài nguyên…Có thể kể đến hàng loạt ngành công nghiệp như vậy: sản xuất phụ tùng ô tô, cấu kiện cơ khí, thép chế tạo, linh kiện nhựa - cao su kỹ thuật, chế biến nông - thủy hải sản, gỗ. Việc sử dụng ít sáng chế trong những ngành công nghiệp này cũng đồng nghĩa với việc chưa phát huy được các lợi thế so sánh bậc cao như công nghệ hiện đại, lao động chất lượng cao, quản trị hiệu quả…

Thêm vào đó, quản trị quyền sở hữu trí tuệ không chỉ là việc tạo lập và bảo vệ các sáng tạo mà doanh nghiệp còn phải tìm ra cơ hội tốt nhất trên thị trường để khai thác các kết quả đó. Sở hữu trí tuệ có thể dẫn đến lợi nhuận từ việc tăng giá trị sản phẩm, phí bản quyền, cho thuê, nhượng quyền, bán, tham gia cổ phần và những hoạt động đầu tư sinh lợi khác.

Kết nối các bên để chuyển giao công nghệ

Song song với doanh nghiệp, viện, trường cũng là những đơn vị có tiềm năng tạo ra và sử dụng các TSTT nhưng chính các viện, trường lại bị vướng mắc ở chỗ mặc dù có kết quả nghiên cứu rất có giá trị, họ hầu như không có bộ phận chuyên trách để đăng ký bảo hộ, tư vấn hướng dẫn bảo đảm quyền lợi cho những người nghiên cứu và quản trị các TSTT đó, dẫn đến việc chuyển giao công nghệ từ viện, trường gặp không ít khó khăn. Đại học Y dược TP.HCM là một trong những cơ sở hàng đầu về nghiên cứu ứng dụng các kỹ thuật điều trị bệnh và điều chế thuốc. Đại diện trường cho biết đang trong bước đầu xây dựng bộ phận chuyển giao công nghệ nhưng gặp khó khăn trong việc định hướng, xác lập những đối tượng để đăng ký bảo hộ và cân nhắc liệu có cần phải sử dụng một đơn vị tư vấn bên ngoài không bởi liên quan đến tính bảo mật của công nghệ và những đòi hỏi hiểu biết về chuyên môn y dược.

Trong bối cảnh mới, khi hoạt động nghiên cứu của các trường viện đã gia tăng rất nhiều so với trước đây và các nhà nghiên cứu cũng có ý thức nhiều hơn trong vấn đề chuyển kết quả nghiên cứu thành sản phẩm công nghệ, vai trò của các trung tâm chuyển giao công nghệ (TTO) đã được nhìn nhận lại. Với tư cách là một chuyên gia tư vấn chuyển giao công nghệ và từng tham gia thành lập TTO đầu tiên ở Brazil, bà Elizabeth Ritter (chuyên gia WIPO), trong một cuộc hội thảo về thúc đẩy quản lý tài sản trí tuệ cho các viện, trường, cho rằng các chính sách của nhà nước là điều cần thiết để thúc đẩy các viện, trường thành lập TTO nhưng “nếu chỉ có mỗi chính sách vĩ mô thì chẳng làm được gì. Điều quan trọng là cần đào tạo nhân lực đủ khả năng điều hành TTO và có hướng dẫn cụ thể về việc xây dựng TTO”.

Tuy nhiên, bà cũng lưu ý, việc đầu tư xây dựng các TTO cần một quá trình dài. Ở những quốc gia có nền công nghiệp phát triển và dẫn đầu trong xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo như Mỹ, Pháp,... TTO cũng phải mất khoảng 10 năm để có thể tự hoạt động ổn định. “Chính phủ cần ý thức điều này bởi đôi khi họ lầm tưởng rằng chỉ cần có TTO là đảm bảo được hoạt động chuyển giao công nghệ của các viện, trường – điều này sẽ ảnh hưởng đến việc xây dựng các chính sách về TTO”.

Ngoài ra, quá trình đầu tư TTO thành công nhanh hay chậm còn phụ thuộc vào nhân lực khoa học và môi trường công nghiệp của mỗi nước. “Khi có nhiều nhà nghiên cứu mạnh, bạn đã có nguồn lực chính để thành lập TTO”, bà Ritter nhận xét. Bên cạnh đó, nhu cầu đổi mới và sáng tạo của các doanh nghiệp cũng sẽ ảnh hưởng đến hoạt động của các TTO. Điều này có thể dễ dàng nhận thấy ở các quốc gia như Mỹ, Pháp, Anh, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore,... - có số lượng các nhà nghiên cứu cao và nhiều doanh nghiệp có nhu cầu đổi mới công nghệ nên đã tạo ra thị trường công nghệ với nguồn cung – cầu lớn.

Ở các quốc gia có nền KH&CN phát triển như Mỹ, Nhật Bản, Đức,... văn phòng chuyển giao công nghệ (TTO) được coi là giải pháp hiệu quả để thương mại hóa kết quả nghiên cứu của các viện, trường. Mỗi viện, trường sẽ có một TTO “đồng hành” với nhà nghiên cứu từ “A đến Z” quá trình thương mại hóa kết quả nghiên cứu: từ tiếp nhận sáng chế - đánh giá tiềm năng - nộp đơn bảo hộ - tìm kiếm đối tác - soạn thảo hợp đồng. “Phần lớn hoạt động chuyển giao công nghệ ở các viện trường trên thế giới đều được thực hiện thông qua TTO”.