Kế hoạch sản lượng nhiên liệu hóa thạch của các chính phủ đến năm 2030 vẫn cao gấp đôi so với mức cần thiết để hạn chế nóng lên toàn cầu trong phạm vi 1,5°C.

Phát hiện này được nêu trong báo cáo 2021 Production Gap Report, do các viện nghiên cứu hàng đầu và Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc (UNEP) thực hiện.

Đây là báo cáo thường niên đo lường khoảng cách giữa sản lượng nhiên liệu hóa thạch (than, dầu mỏ và khí đốt) theo kế hoạch của các chính phủ và sản lượng đủ thấp để đáp ứng mục tiêu hạn chế nóng lên toàn cầu theo Thỏa thuận Paris, được công bố lần đầu vào năm 2019.

Ảnh minh họa

Theo báo cáo mới, các kế hoạch và dự báo của các chính phủ đến nay cho thấy tổng sản lượng nhiên liệu hóa thạch trên toàn cầu sẽ tiếp tục tăng, ít nhất là tới năm 2040, tạo ra khoảng cách ngày càng rộng hơn giữa sản lượng dự kiến và sản lượng theo mục tiêu khí hậu.

Cụ thể, kế hoạch sản lượng nhiên liệu hóa thạch của các chính phủ đến năm 2030 cao hơn khoảng 110% so với mức đủ thấp để hạn chế nóng lên toàn cầu trong phạm vi 1,5°C; và cao hơn 45% so với mức cần để hạn chế sự nóng lên trong phạm vi 2°C.

Báo cáo cung cấp thông tin về 15 quốc gia có sản lượng nhiên liệu hoá thạch lớn, bao gồm: Úc, Brazil, Canada, Trung Quốc, Đức, Ấn Độ, Indonesia, Mexico, Na Uy, Nga, Ả Rập Saudi, Nam Phi, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất, Vương quốc Anh và Mỹ. Ở hầu hết các nước này, chính phủ tiếp tục có những hỗ trợ chính sách để tăng cường sản xuất nhiên liệu hóa thạch.

Kể từ khi đại dịch COVID-19 bắt đầu bùng phát, các quốc gia này đã dành hơn 300 tỷ USD cho các quỹ mới phục vụ các hoạt động liên quan đến nhiên liệu hóa thạch - nhiều hơn số tiền họ dành cho năng lượng sạch.

“Các quốc gia sản xuất nhiên liệu hóa thạch phải nhận thức rõ vai trò và trách nhiệm của mình trong việc thu hẹp khoảng cách sản xuất và tương lai khí hậu an toàn,” và nhanh chóng giảm sản lượng nhiên liệu hoá thạch, theo Måns Nilsson, giám đốc điều hành Viện Môi trường Stockholm (SEI).

Báo cáo được thực hiện bởi Viện Môi trường Stockholm (SEI), Viện Phát triển bền vững Quốc tế (IISD), Viện Phát triển Hải ngoại (ODI), tổ chức E3G và UNEP. Hơn 40 nhà nghiên cứu từ nhiều trường đại học, các tổ chức tư vấn và nghiên cứu khác đã đóng góp vào nghiên cứu.

Nguồn: