Nấm bệnh Candida auris đang nổi lên như một mối đe dọa nghiêm trọng tới cộng đồng về các loại vi trùng kháng thuốc.
Nấm C. auris trở thành mối đe dọa cho bệnh viện Mount Sinai ở Brooklyn, Mỹ.
Tháng 5/2018, một người đàn ông lớn tuổi được đưa vào chi nhánh Bệnh viện Mount Sinai ở Brooklyn (Mỹ) để phẫu thuật ổ bụng. Kết quả xét nghiệm máu cho thấy ông bị nhiễm một loại vi trùng nguy hiểm bí ẩn mới. Các bác sĩ nhanh chóng cách ly ông tại phòng chăm sóc đặc biệt. Sau 90 ngày, người đàn ông đó qua đời, nhưng mầm bệnh đó thì không bởi theo các kết quả xét nghiệm, nó có ở khắp nơi trong phòng, đến mức bệnh viện phải dùng các thiết bị vệ sinh đặc biệt và thậm chí phải gỡ các tấm lót sàn và trần xuống để loại bỏ tận gốc. Ở Mỹ, New York đã xác nhận trường hợp mắc nấm C. auris này lên đến 309 ca, tiếp theo là Illinois (144), New Jersey (104) và 9 tiểu bang khác. Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Liên bang Mỹ (CDC) phải bổ sung nó vào danh sách các mầm bệnh được coi là “mối đe dọa khẩn cấp”.
Mầm bệnh này là nấm Candida auris, vốn tập trung tấn công những người có hệ miễn dịch yếu. Âm thầm lây lan trên toàn cầu, trong 5 năm qua, C. auris đã lan tới một trung tâm chăm sóc trẻ sơ sinh ở Venezuela, quét qua một bệnh viện tại Tây Ban Nha, cắm rễ tại Ấn Độ, Pakistan và Nam Phi, buộc một trung tâm y tế uy tín của Anh phải đóng cửa phòng chăm sóc đặc biệt.
C. auris có sức sống dai dẳng và trở thành một ví dụ điển hình mới về sự gia tăng của nhiễm trùng kháng thuốc. Theo CDC, mặc dù các chủng nấm Candida nổi bật khác vẫn chưa phát triển khả năng đề kháng đáng kể với nhiều loại thuốc, nhưng hơn 90% trường hợp nhiễm C. auris đã đề kháng với ít nhất một loại thuốc và 30% trường hợp C. auris có thể đề kháng từ 2 loại thuốc trở lên. TS. Lynn Sosa, người phụ trách dịch tễ học bang Connecticut, cho biết hiện tại bà coi C. auris là mối đe dọa “hàng đầu” trong số các vi trùng kháng thuốc. Gần một nửa số bệnh nhân mắc C. auris chết trong vòng 90 ngày.
Những người chăm sóc bệnh nhân nhiễm C. auris cũng lo lắng cho sự an toàn của chính họ. Bác sĩ Matthew McCarthy tại Trung tâm y tế Weill Cornell ở New York nói, ông thấy sợ hãi khác thường khi điều trị cho một bệnh nhân nam 30 tuổi. Dù vẫn thực hiện chu trình đúng trách nhiệm nhưng ông cho biết: “Tôi luôn có cảm giác kinh hoàng là mình có thể vô tình dính phải nó”.
Mối đe dọa ngày càng tăng
Thường được gọi là “siêu khuẩn” nhưng không phải ai bị nhiễm vi khuẩn kháng thuốc cũng tử vong. Chúng nguy hiểm nhất đối với những người có hệ miễn dịch yếu hoặc chưa trưởng thành. Các nhà khoa học cho rằng, chúng ta cần phát triển được loại thuốc mới hiệu quả và hạn chế mạnh việc sử dụng thuốc kháng sinh bừa bãi. Cái khó hiện nay là việc phát triển mỗi loại thuốc mới cần khoảng 10-20 năm, trong khi đó chúng ta đã ghi nhận những trường hợp tử vong do các loại vi khuẩn kháng hơn 26 loại thuốc kháng sinh.
CDC ước tính, hằng năm Mỹ có khoảng 2 triệu người bị nhiễm trùng kháng thuốc, trong đó 23,000 người tử vong. Con số này được tính toán dựa trên dữ liệu thực tế năm 2010. Gần đây, vào cuối năm 2018, các nhà nghiên cứu tại Đại học Y Washington đã công bố một ước tính khác cao hơn, trong đó con số tử vong do nhiễm trùng kháng thuốc lên tới 162,000 người. ARM-Review cũng dự đoán khoảng 700,000 người chết vì nhiễm trùng kháng thuốc trên toàn thế giới mỗi năm.
Dự án Đánh giá về kháng kháng sinh (ARM-Review) do Chính phủ Anh tài trợ từ 7/2014 đã dự báo, nếu không đưa ra các chính sách kiềm chế tình trạng kháng thuốc thì đến thời điểm năm 2050, sẽ có hơn 10 triệu người trên toàn thế giới có thể chết bởi các bệnh nhiễm trùng nói chung, vượt hẳn con số 8 triệu người dự kiến chết vì ung thư trong cùng năm.
“Không cần” công khai thông tin với công chúng
Thông thường với vi khuẩn và nấm, các bệnh viện và chính quyền địa phương luôn tỏ ra miễn cưỡng trong việc tiết lộ ổ dịch bởi họ sợ bị coi là trung tâm lây nhiễm. Ngay cả CDC, theo thỏa thuận với các tiểu bang, cũng không được phép công khai vị trí hoặc tên những bệnh viện liên quan đến ổ dịch. Đã có nhiều trường hợp chính quyền tiểu bang Mỹ từ chối chia sẻ thông tin công khai và chỉ thừa nhận rằng họ đã có trường hợp nhiễm khuẩn. Trong khi đó, vi trùng rất dễ lây lan, chúng bám lên tay người, thiết bị bên trong bệnh viện; truyền từ bệnh nhân ở viện dưỡng lão tới bệnh viện, tồn tại trên thịt và rau bón phân hữu cơ tại trang trại; trên người khách du lịch qua biên giới, và qua hoạt động xuất nhập khẩu toàn cầu.
Cái khó hiện nay là việc phát triển mỗi loại thuốc mới cần khoảng 10-20 năm, trong khi đó chúng ta đã ghi nhận những trường hợp tử vong do các loại vi khuẩn kháng hơn 26 loại thuốc kháng sinh.
Vào cuối năm 2015, TS. Johanna Rhodes, một chuyên gia về bệnh truyền nhiễm tại Đại học Imperial College London, đã nhận được một cú điện thoại hoảng loạn từ Bệnh viện Hoàng gia Brompton, London: ‘Chúng tôi không biết nó đến từ đâu. Chưa bao giờ nghe đến nó, và rồi nó cứ lan như lửa cháy ấy’, TS. Rhodes kể lại cuộc trao đổi. Bệnh viện cho biết nấm C. auris đã có mặt ở đó vài tháng và họ không có cách nào loại trừ được nó. TS Rhodes đã nhận lời giúp bệnh viện xác định bản mã di truyền của loại nấm này. Dưới sự chỉ đạo của Rhodes, các nhân viên sử dụng một thiết bị đặc biệt để phun khí hydro peroxide (H2O2) quanh căn phòng bệnh nhân mắc C. auris, khí hơi sẽ quét sạch mọi ngóc ngách. Họ để thiết bị chạy một tuần, rồi đặt một đĩa lắng đọng có chứa lớp gel vào giữa, cho phép những vi khuẩn còn sót lại phát triển trên đó. Kết quả, chỉ có một sinh vật duy nhất sinh sôi trở lại là C. auris.
Mặc dù loại nấm này lan truyền rộng rãi nhưng thông tin về nó lại bị ghìm lại. Bệnh viện Hoàng gia Brompton - nơi chuyên điều trị các bệnh về tim phổi, có nhiều bệnh nhân giàu có từ vùng Trung Đông và châu Âu. Họ đã gửi cánh báo về C. auris đến Chính phủ Anh cũng như nói cho các bệnh nhân bị nhiễm bệnh biết, nhưng không công khai bất kì một tin tức nào. Ông Oliver Wilkinson, người phát ngôn của bệnh viện cho rằng “không cần thiết phải đưa ra thông cáo báo chí trong tình trạng bùng phát dịch” như thế.
Tình trạng này đang diễn ra ở nhiều bệnh viện trên khắp thế giới. Các tổ chức, chính quyền quốc gia, tiểu bang và chính quyền địa phương miễn cưỡng công khai các đợt bùng phát nhiễm trùng kháng thuốc, cho rằng sẽ chẳng có ích gì khi khiến bệnh nhân hoặc những người có khả năng mắc bệnh phải sợ hãi. TS. Silke Schelenz, Bệnh viện Hoàng gia Brompton, cảm thấy bức xúc về cách hành xử này, bởi rõ ràng họ bảo vệ danh tiếng hơn là sức khỏe con người.
Những bí mật này làm dấy lên phẫn nộ. “Tại sao chúng ta lại chỉ được đọc về một ổ dịch khi nó đã xảy ra gần 1 năm rưỡi, mà chẳng phải trên trang nhất các tờ báo vào lúc dịch nổ ra?”, bác sĩ Kevin Kavanagh ở Kentucky và là chủ tịch hội đồng quản trị của Health Watch USA - một nhóm vận động bệnh nhân phi lợi nhuận, đặt câu hỏi khi đề cập đến trường hợp một ổ dịch lớn hơn đã xảy ra tại Bệnh viện Đại học Politècnic La Fe, ở Valencia, Tây Ban Nha, vốn chỉ được công khai thông tin về 372 người bị nhiễm khuẩn (mang mầm bệnh nhưng không có triệu chứng), 85 người bị nhiễm trùng máu và tỷ lệ tử vong 41% cho đến khi một bài báo khoa học trên tạp chí Myscoses được xuất bản vào tháng 4/2018. Một bác sĩ làm việc tại đây và là đồng tác giả của bài báo trên Myscoses cho biết, bệnh viện không muốn anh nói chuyện với nhà báo bởi nó “liên quan đến hình ảnh công chúng của bệnh viện.”
Vai trò của thuốc trừ sâu?
Trong khi CDC nỗ lực hạn chế sự lây lan của chủng nấm C. auris kháng thuốc, các nhà điều tra của họ cũng cố gắng trả lời câu hỏi nó bắt nguồn từ đâu? Nấm Candida auris được phát hiện lần đầu tiên vào năm 2009 khi các bác sĩ tìm thấy nó trong dịch tai của một bệnh nhân ở Nhật Bản (auris có nghĩa là tai trong tiếng Latin). Thời điểm đó, nó được xem như vô hại, chỉ là một biến thể của bệnh nhiễm nấm dễ điều trị thông thường. Ba năm sau, nó tái xuất hiện trong kết quả xét nghiệm bất thường tại phòng thí nghiệm của TS. Jacques Meis, một nhà vi trùng học ở Hà Lan khi phân tích nhiễm trùng máu của 18 bệnh nhân từ 4 bệnh viện ở Ấn Độ.
Đưa ra giả thuyết C. auris bắt đầu từ châu Á và lan rộng trên toàn cầu nhưng các nhà điều tra của CDC nhận thấy không phải chỉ có một chủng auris khi so sánh bộ gene của các mẫu auris từ Ấn Độ, Pakistan, Venezuela, Nam Phi và Nhật Bản. Kết quả giải trình tự gene cho thấy, có 4 phiên bản phân biệt của loại nấm này. Sự khác nhau nhiều đến mức họ nghĩ chủng này đã phân nhánh từ hàng ngàn năm trước và xuất hiện dưới dạng mầm bệnh kháng kháng sinh từ những môi trường vô hại đồng thời ở 4 nơi.
Có nhiều giả thuyết khác nhau về những gì đã xảy ra với C. auris. TS. Meis cho rằng nấm kháng thuốc được hình thành phát triển do việc sử dụng quá nhiều thuốc diệt nấm trên cây trồng. Ông bị hấp dẫn bởi nấm kháng thuốc này khi nghe về trường hợp bệnh nhân 63 tuổi ở Hà Lan mất năm 2005 do một loại nấm tên là Aspergillus có khả năng chống lại itraconazole, một trong những thuốc điều trị nấm hàng đầu hiện nay. Loại thuốc đó là một bản sao của thuốc trừ sâu azole hiện được dùng phổ biến trên thế giới và chiếm hơn 1/3 tổng doanh số bán thuốc diệt nấm toàn cầu.
Theo một bài báo trên tạp chí Plos Pathogens năm 2013, không phải ngẫu nhiên mà nấm Aspergillus kháng thuốc xuất hiện ở môi trường sử dụng thuốc azole. Loại nấm này xuất hiện trong 12% mẫu đất của Hà Lan, nhưng cũng xuất hiện ở “các luống hoa, phân hữu cơ, lá, hạt giống, mẫu đất của vườn chè, ruộng lúa, không gian xung quanh bệnh viện và mẫu không khí tại bệnh viện”. Ông Meis đưa ra giả thuyết, điều tương tự cũng đang xảy ra với nấm C. auris, và Azoles đã tạo ra một môi trường khắc nghiệt đến nỗi những loại nấm đó buộc phải tiến hóa theo hướng kháng thuốc để tồn tại. Điều này tương tự như những lo ngại rằng vi khuẩn kháng thuốc đang phát triển do lạm dụng quá nhiều kháng sinh trong chăn nuôi để tăng sức khỏe và tăng trưởng.
Ngược lại, TS. Tom Chiller, trưởng khoa nghiên cứu nấm bệnh của CDC đưa ra giả thuyết: C. auris có thể đã được “hưởng lợi” từ việc lạm dụng thuốc diệt nấm. Ý tưởng của ông là C. auris thực sự đã tồn tại hàng ngàn năm, ẩn trong các kẽ hở của thế giới và là một loại nấm không đặc biệt nguy hiểm. Nhưng khi azole bắt đầu tiêu diệt những loại nấm phổ biến khác, cơ hội mở đến với C. auris - loại vi trùng đã có sẵn khả năng kháng thuốc diệt nấm, sẽ thật phù hợp sinh tồn trong một thế giới mà những loại nấm thông thường khác đang bị tấn công, hủy diệt. Hiện tại, sự xuất hiện bí ẩn của C. auris vẫn chưa được giải quyết, nhưng nguồn gốc của nó dường như không quan trọng bằng việc tìm cách ngăn chặn sự lây lan.