Cụ thể, thông thường con người không chú ý đến những nhiễm trùng nhỏ do vi khuẩn thực phẩm nhẹ do chúng dễ dàng qua khỏi mà không cần phải điều trị, như ngộ độc thực phẩm nhẹ. Tuy nhiên đây lại có thể là mầm mống để bắt đầu chuỗi sự kiện có thể dẫn đến viêm đại tràng mãn tính và viêm đại tràng cấp tính, đe dọa tới tính mạng. Những phát hiện mới này cũng giúp xác định nguồn gốc bí ẩn của bệnh viêm ruột (IBD).
Nhóm nghiên cứu do tiến sĩ Jamey Marth dẫn đầu đã phải mất 8 năm nghiên cứu để có thể ra kết quả đầy đột phá này. Nhóm nghiên cứu đa quốc gia ban đầu cùng nhau hợp tác để điều tra nguồn gốc của các chứng viêm mãn tính, gồm viêm đại tràng và IBD.
Sau nhiều nghiên cứu và giả thuyết, nhóm nghiên cứu đã phát hiện ra rằng những bệnh nhiễm trùng ngắn theo mùa ở người có liên quan đến sự gia tăng chẩn đoán mắc IBD.
"Việc cố gắng xác định nguồn gốc của một căn bệnh rất quan trọng vì nó cho chúng ta hiểu biết để đưa ra các biện pháp điều trị hiệu quả hơn", ông Marth nói.
Ngộ độc thực phẩm nhiều lần làm gia tăng nồng độ enzyme pro-inflammatory (màu xanh lá), gây ức chế khả năng giải độc bình thường của ruột. Ảnh: Internet
Từ nhiều phát hiện lâm sàng, nhóm nghiên cứu đã đưa ra giả thuyết rằng những bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn tái phát thường xuyên ở mức độ thấp có thể là nguyên nhân khởi phát những biến chứng viêm mãn tính.
Bằng nghiên cứu trên chuột, các nhà khoa học đã chứng minh rằng một sinh vật bị ngộ độc nhẹ liên tục nhiều lần sẽ bị tích lũy thành viêm đại tràng mãn tính và căn bệnh này sẽ không thể chữa khỏi tận gốc.
"Chúng tôi phát hiện ra nguồn gốc bệnh viêm ruột mãn tính trong quá trình mô phỏng hóa ngộ độc thực phẩm ở người do quá trình này xảy ra liên tục ở người từ lúc nhỏ tới khi trưởng thành. Đáng chú lý là vi khuẩn Salmonella đã tìm cách phá vỡ cơ chế bảo vệ chưa từng được biết trước đây của ruột mà thường ngăn ngừa chứng viêm ruột", ông Marth giải thích.
Những lần bị ngộ độc nhẹ dẫn tới sự thiếu hụt phosphatase kiềm (IAP) trong ruột, một loại enzim sản sinh ra trong tá tràng của ruột non. Nhiễm Salmonella làm tăng hoạt động của neuraminidase trong ruột non, dẫn đến tăng tốc độ lão hóa phân tử và tốc độ sản xuất IAP khiến cho cơ thể thiếu hụt IAP trong ruột già.
IAP rất quan trọng bởi vì công việc của nó là loại bỏ phosphate khỏi các phân tử như lipopolysaccharide pro-inflammatory (LPS) - được tạo ra bởi các vi khuẩn cư trú trong đại tràng - từ đó chuyển LPS từ trạng thái độc sang không độc.
Tin vui là chúng ta có thể phòng tránh nguy cơ này khi tăng mức IAP có trong cơ thể bằng cách cho thêm enzyme vào nước uống hoặc sử dụng thuốc ức chế neuraminidase, một loại thuốc vốn dùng để ngăn ngừa nhiễm virut cúm để giúp số lượng IAP trong cơ thể được bảo đảm.