Các nhà nghiên cứu lưu ý rằng vaccine có thể vấp phải các thử nghiệm an toàn hoặc không đáp ứng được kỳ vọng của công chúng.

Tình nguyện viên thử nghiệm vaccine nCoV tại Viện Nghiên cứu Y tế Kaiser Permanente Washington ở Seattle, ngày 16/3. Ảnh: AP
Tình nguyện viên thử nghiệm vaccine nCoV tại Viện Nghiên cứu Y tế Kaiser Permanente Washington ở Seattle, ngày 16/3. Ảnh: AP

Hai tuần trước, cuộc thử nghiệm vaccine hàng đầu ở Anh do Oxford và công ty dược phẩm AstraZeneca phát triển đã khởi động lại, sau sáu ngày tạm dừng để điều tra những lo ngại về vấn đề an toàn. Hoạt động thử nghiệm của vaccine này ở Nam Phi và Brazil cũng đã tạm dừng từ lúc đó. Những vấn đề an toàn như vậy đặt ra yêu cầu phải hết sức minh bạch thông tin liên quan tới các thử nghiệm vaccine. Trong khi đó, giới khoa học vẫn lo ngại rằng có sự ảnh hưởng của áp lực chính trị lên vaccine khi mà chính quyền của Tổng thống Mỹ Donald Trump cho biết muốn có vaccine trước cuộc bầu cử tổng thống vào tháng 11. Để xoa dịu những lo ngại, các công ty dược phẩm đứng sau ba loại vaccine coronavirus hàng đầu trong các thử nghiệm giai đoạn III, gồm AstraZeneca, Pfizer và Moderna - đã công bố tài liệu mô tả cách thức tiến hành các thử nghiệm của họ hồi tuần trước. Các quy trình thử nghiệm này bao gồm các tiêu chuẩn đánh giá mức độ an toàn và hiệu quả, cả việc mất bao lâu thì sẽ có kết quả sơ bộ của vaccine. Các tài liệu cũng mô tả cách mà các công ty có thể được ngưng thử nghiệm lâm sàng sớm để được phê duyệt nhanh chóng.

Dưới đây là ba vấn đề mà các nhà khoa học đang theo dõi chặt chẽ.

Tính an toàn và minh bạch

Ban đầu, các nhà nghiên cứu không quá lo lắng khi thử nghiệm Vaccine Oxford ở Anh bị tạm dừng vào 06/09 do tác dụng phụ ở một người được tiêm thử nghiệm. Họ cho rằng các phản ứng bất lợi trong các thử nghiệm lâm sàng là khá phổ biến và thường không liên quan đến việc điều trị. Do đó, các cơ quan quản lý của Anh cho phép thử nghiệm tiếp tục sớm trở lại. Một số phương tiện truyền thông đã đưa tin rằng người tham gia có biểu hiện phát triển bệnh viêm tủy ngang (một chứng viêm tủy sống).

Nhưng AstraZeneca và Oxford đã không công bố thông tin về vấn đề này. Và một số nhà khoa học đã chỉ trích việc công bố thiếu thông tin, đặc biệt là khi có thông tin cho rằng đây là lần thứ hai tạm dừng thử nghiệm vì tác dụng phụ bất lợi. Hồi tháng bảy, người tham gia thử nghiệm cũng được lưu ý rằng thử nghiệm trước đó đã bị tạm dừng, khi một người tham gia được báo cáo là đã phát triển các triệu chứng của bệnh viêm tủy ngang. AstraZeneca cho biết người này sau đó được chẩn đoán mắc bệnh đa xơ cứng. Một hội đồng độc lập đã tuyên bố tình trạng này không liên quan đến vaccine. Tuy nhiên, AstraZeneca và Đại học Oxford vẫn chưa cho biết hai người tham gia đó đã được tiêm vaccine hay giả dược.

Raina MacIntyre, một nhà dịch tễ học tại Đại học New South Wales ở Sydney, Úc, cho biết: “Nếu chỉ có hai người phát triển bệnh viêm tủy ngang, con số này tương đối nhỏ khi so với số người tham gia. (Nhưng) nếu có trường hợp khác nữa, sẽ rất khó để thử nghiệm trở lại.” MacIntyre lưu ý rằng nhiễm virus có liên quan đến cả viêm tủy ngang và bệnh đa xơ cứng. “Các trường hợp viêm tủy ngang cũng đã được phát hiện ở những người mắc Covid-19”, cô nói. “Để loại trừ mối liên hệ giữa vaccine và các tình trạng bệnh này, các nhà nghiên cứu phải thực hiện các phân tích thống kê, so sánh tỷ lệ tình trạng bệnh những người ở nhóm được tiêm vaccine với tỷ lệ bệnh này ở nhóm giả dược. Đây có lẽ là điều mà FDA vẫn đang điều tra, trước khi quyết định có cho phép các thử nghiệm ở Mỹ tiếp tục hay không”, MacIntyre nói.

Hilda Bastian, nghiên cứu y học thực chứng tại Đại học Bond ở Gold Coast, Australia, cho rằng thông tin chi tiết về lý do tại sao các thử nghiệm bị tạm dừng và sau đó được tiếp tục nên được công bố rộng rãi. “Sự thiếu minh bạch từ các nhà tài trợ thử nghiệm là một mối lo ngại và có thể khiến một số người tham gia rút lui, hoặc khiến mọi người quyết định không tiêm vaccine sau khi chúng được chấp thuận. Chúng ta cần sự tin tưởng của công chúng vào những vaccine đang được phát triển nhanh chóng này”.

Niềm tin của công chúng

Niềm tin của công chúng đối với Vaccine coronavirus đang dao động, đặc biệt ở Mỹ, nơi Trump thường xuyên quảng cáo ‘Chiến dịch Warp Speed’ để tăng tốc phát triển vaccine Covid-19. Trung tâm Nghiên cứu Pew ở Washington DC cho biết vào ngày 17/09: Trong các cuộc khảo sát, tỷ lệ người trưởng thành ở Mỹ có khả năng chấp nhận vaccine Covid-19 đã giảm từ 72% vào tháng năm xuống 51% vào tháng chín. Ba phần tư số người được khảo sát vào tháng chín cho rằng Mỹ sẽ chấp thuận một loại vaccine trước khi thiết lập vững chắc tính an toàn và hiệu quả của nó.

Ngay cả các nhà nghiên cứu liên quan đến thiết kế và thử nghiệm vaccine cũng bày tỏ sự dè dặt, vì quá trình phê duyệt có khả năng bị ảnh hưởng bởi các cân nhắc chính trị chứ không chỉ khoa học. Kurt Viele, giám đốc công ty tư vấn về các thiết kế thử nghiệm lâm sàng tại Berry Consultants, ở Lexington, Kentucky cho biết: “Tôi sẽ xem xét các dữ liệu an toàn, trước khi tiêm một liều vaccine cho con mình”.

Sự ngờ vực không chỉ giới hạn ở Hoa Kỳ. Yannis Natsis, một nhà quản lý chính sách của nhóm vận động Liên minh Y tế Công cộng châu Âu cho biết: “Ở châu Âu, các cuộc đàm phán kín với các công ty về mua sắm vaccine đang gây ra sự lưỡng lự”. Ông nói: “Chúng tôi không muốn đặt cho vaccine một cái tên xấu, chúng tôi muốn bảo vệ niềm tin vào vaccine. Nhưng đang có một sự thiếu minh bạch đáng kinh ngạc ở đây”.

Tại Hoa Kỳ, Giấy phép Sử dụng Khẩn cấp của FDA (EUA) đã có thể cho phép bỏ qua quy trình phê duyệt thuốc thông thường và cho phép sử dụng các phương pháp điều trị nếu chúng “có thể hiệu quả”. Herschel Nachlis, người nghiên cứu chính sách y tế tại Đại học Dartmouth ở Hanover, New Hampshire, cho biết: “Nếu mơ hồ và không minh bạch, nó có khả năng bị ảnh hưởng bởi chính trị”.

Hai EUA đối với phương pháp điều trị giả định Covid-19 là thuốc trị sốt rét hydroxychloroquine và truyền huyết tương giàu kháng thể từ những người đã khỏi bệnh, đã làm dấy lên lo ngại về ảnh hưởng chính trị. Trump ủng hộ cả hai phương pháp điều trị. Tuy nhiên chúng không nhận được ủng hộ từ các thử nghiệm lớn, thử nghiệm ngẫu nhiên hay thử nghiệm mù đôi, là tiêu chuẩn vàng của nghiên cứu lâm sàng. EUA hydroxychloroquine đã bị thu hồi sau khi dữ liệu lâm sàng cho thấy nó không có hiệu quả ở những người nhập viện do Covid-19. Trong khi EUA của huyết tương giàu kháng thể đã được công bố một ngày trước khi diễn ra một hội nghị lớn của đảng cộng hoà.

Vì vậy, khi các công ty phát hành các giao thức thử nghiệm lâm sàng cho ba ứng viên vaccine hàng đầu vào tuần trước, các nhà nghiên cứu đã nhanh chóng tìm hiểu các chi tiết. “Nhìn chung, các giao thức trông khá bình thường”, David Benkeser, một nhà thống kê sinh học tại Đại học Emory ở Atlanta, Georgia cho biết. Nhưng trong giao thức của hãng Pfizer, các phân tích ban đầu cho thấy khi vaccine có hiệu quả thuyết phục trong việc giảm nhiễm trùng ở cỡ mẫu nhỏ (32 người thử nghiệm) trong khoảng thời gian ba tháng, công ty có thể nộp đơn xin EUA. “Mặc dù có thể chứng minh rằng vaccine hoạt động đủ tốt để đáp ứng tiêu chuẩn của FDA ở giai đoạn đầu đó, nhưng vaccine sẽ phải theo dõi trong thời gian lâu dài”, Viele nói. Ba tháng cũng là quá ngắn để có thể hiểu rõ khả năng miễn dịch. Pfizer đã không trả lời các câu hỏi về cơ sở lý luận đằng sau thiết kế thử nghiệm lâm sàng, hay liệu họ có kế hoạch tiếp tục theo dõi độ an toàn nếu thử nghiệm được ngưng sớm hay không.

Viele cho biết điều quan trọng là công ty phải tiếp tục thu thập dữ liệu an toàn, ngay cả khi thử nghiệm được ngưng sớm và cung cấp dữ liệu an toàn đó một cách công khai để trấn an một cộng đồng đang lo lắng.

FDA được cho là đang tăng cường quy trình EUA cho vaccine Covid-19. Cơ quan này sẽ sớm yêu cầu mức dữ liệu gần với mức phê duyệt thông thường hơn (cao hơn mức mà cơ quan này đã cấp đối với EUA Covid-19 trước đó của mình).

Mục tiêu và hiệu quả

Mỗi thử nghiệm giai đoạn III hiện tại đang thu hút hàng chục nghìn người tham gia. “Nhưng một thử nghiệm nhằm xác định liệu một loại vaccine có làm giảm tỷ lệ mắc bệnh Covid-19 nghiêm trọng hay không sẽ cần quy mô nhiều hơn thế. Do đó, nó sẽ mất nhiều thời gian hơn”, Thomas Lumley, nhà thống kê sinh học tại Đại học Auckland ở New Zealand, cho biết. Các thử nghiệm hiện tại đã chọn con đường trung gian, giữa việc xác định liệu vaccine có ngăn ngừa bất kỳ sự lây nhiễm nào với virus hay không và kiểm tra xem chúng có ngăn ngừa nhiễm trùng nặng hay không, ông nói.

Các công ty đang hướng tới mục tiêu vaccine ngăn chặn ít nhất 50% số người được tiêm chủng bị nhiễm Covid-19 có triệu chứng. Đó là định nghĩa thành công trong hướng dẫn của FDA, nhưng họ đang hy vọng hiệu quả đạt được là 60% hoặc cao hơn.

Nhưng ngay cả 60% cũng không đủ để đạt được khả năng miễn dịch cộng đồng, Lumley nói. MacIntyre cho biết: “Để ngăn ngừa thành công, vaccine phải có hiệu quả ít nhất 80% vì không phải tất cả mọi người dân đều sẽ nhận được vaccine”.

Tuy nhiên, việc tiêm vaccine cho một phần lớn dân số sẽ là một chặng đường dài để kiểm soát sự lây lan của virus. Chúng phải được kết hợp với các biện pháp can thiệp khác, chẳng hạn như đeo khẩu trang và theo dõi tiếp xúc.

Nguồn: Nature doi: 10.1038/d41586-020-02706-6