Thủy tùng (Glyptostrobus pensilis) là loài đặc hữu được xếp vào diện bảo vệ nghiêm ngặt. Hiện trên thế giới có ba khu vực còn ghi nhận loài này là Trung Quốc, Lào và Việt Nam.

Trong đó Việt Nam là nước có số lượng thủy tùng còn lại nhiều nhất, phân bố ở ba địa điểm gồm hồ Ea Răl, rừng đặc dụng Trấp Ksơr và thị xã Buôn Hồ của tỉnh Đắk Lắk.

Một cây thủy tùng giâm hom phát triển rất chậm khi trồng trong môi trường tự nhiên. Ảnh: Dương Giang/TTXVN
Một cây thủy tùng giâm hom phát triển rất chậm khi trồng trong môi trường tự nhiên. Ảnh: Dương Giang/TTXVN
Thủy tùng có giá trị đặc biệt về kinh tế, khoa học, môi trường và có tên ghi trong Sách đỏ Việt Nam, được xếp vào loài có nguy cơ tuyệt chủng cao, là một trong 10 loài thông được ưu tiên bảo tồn.

Để bảo vệ cây thủy tùng, tháng 1/2011, Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Lắk phê duyệt Đề án bảo tồn loài sinh cảnh thủy tùng giai đoạn 2010-2015. Theo đó, tỉnh đã thành lập 2 Ban quản lý ở Khu bảo tồn xã Ea Ral với diện tích 49 ha và Trấp K’sor với 61,6ha.

Theo số liệu thống kê của Chi cục Kiểm lâm Đắk Lắk, tại huyện Ea H’leo, Khu bảo tồn Ea Ral thủy tùng chỉ còn 219 cây và huyện Krông Năng trong Khu bảo tồn Trấp K’sor còn 31 cây.

Số cây thủy tùng hiện còn trong các Khu bảo tồn Ea Ral và Trấp Ksor là quần thể nhỏ với mật độ 40-50 cây/1.000m2 nên không thể thụ phấn được, vì vậy hạt thủy tùng không thể nảy mầm, các quần thể thủy tùng đã và đang bị thoái hóa.

Trong 35 năm qua các nhà khoa học theo dõi tại hai khu vực này cho biết không thấy xuất hiện những cây non tái sinh hạt, mà chỉ có một vài cây tái sinh chồi.

Phần lớn các cá thể thủy tùng đang già cỗi, sức sinh trưởng kém, cành lá thưa thớt. Hàng năm cây vẫn ra hoa, đậu quả nhưng đều cho hạt lép. Như vậy loài cây này đang đối mặt với nguy cơ bị tuyệt chủng.

Từ năm 2007 đến nay, Viện Khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp Tây Nguyên đã thực hiện Đề tài " Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học, sinh thái và nhân giống làm cơ sở bảo tồn loài thủy tùng." Kết quả nghiên cứu cho thấy, thủy tùng nhân giống được bằng các phương pháp như “dâm hom,” “cấy mô” và “ghép gốc”.

Phương pháp dâm hom có 17% ra rễ nhưng khi trồng tỷ lệ chết cao. Còn phương pháp cấy mô cây tạo chồi tốt, nhưng tìm môi trường ra rễ lại khó. Riêng phương pháp ghép gốc với cây có hệ di truyền gần giống thủy tùng là cây bụt mọc (hạt bụt mọc xuất xứ từ Mỹ) cho kết quả khả quan, với tỷ lệ sống hơn 70%. Năm 2012, mầm ghép thủy tùng sinh trưởng, phát triển ổn định.

Năm 2013, cây được đưa về các huyện Krông Năng, Ea H’Leo, Krông Pắk trồng thử nghiệm trên đất cạn ẩm ướt có tưới nước và khu đầm lầy. Kết quả cây trồng trên cạn tỷ lệ sống đạt 90%, sinh trưởng và phát triển tốt. Ðây là ưu thế vượt trội của cây ghép thích ứng tốt với môi trường trên cạn so với cây mọc tự nhiên. Dự đoán sau 3 năm, trung bình cây cao 7m, đường kính gốc đạt 25cm.

Còn ở môi trường sình lầy tại nơi phân bố do mực nước cao nên cây lớn chậm hơn, tỷ lệ sống thấp đạt 70%. Sau 3 năm cây cao khoảng 2,5m, đường kính gốc 8cm. Năm 2014, cây thủy tùng ghép chồi được trồng thử nghiệm trên nương rẫy gần một năm, đạt tỉ lệ sống khi đem trồng trên đất đạt 100%, cao khoảng 1,5m, đường kính 3 - 4cm, hiện nay đã ươm được 1.500 cây.

Ngoài giá trị về kinh tế, thủy tùng còn có giá trị đặc biệt về khoa học, môi trường. Nếu trồng thử nghiệm thành công, loài cây này sẽ được đưa vào trồng ở nhiều hệ sinh thái khác nhau như hồ đập, bờ sông, rừng đầu nguồn… nhằm bảo vệ nguồn nước ngầm đang bị suy giảm nghiêm trọng. Các chuyên gia cũng đề xuất, thủy tùng là loài cổ thực vật, theo thời gian, môi trường sống thay đổi nên cây bị thoái hóa. Thay vì cố chống lại quy luật tự nhiên, cần tập trung nhân giống bảo vệ chúng.

Thành công bước đầu trong ghép chồi thủy tùng, chứng minh việc tạo ra các quần thể nhân tạo là điều không khó. Nếu trồng với số lượng đủ lớn, sinh cảnh phù hợp, thủy tùng hoàn toàn có khả năng tự thụ phấn, sinh sản bằng hạt. Vì vậy cần có một dự án quy mô lớn cả về tài chính, con người, khoa học-kỹ thuật để nhân rộng thủy tùng ở địa phương.

Theo các nhà khoa học chuyên ngành thực vật, thủy tùng chủ yếu mọc ở các vùng đầm lầy, thuộc nhóm 1A, nhóm thực vật rừng, là cây gỗ lớn thường xanh, cao từ 25-30m, đường kính thân lớn từ 1,3m. Vỏ dày, xốp, màu xám, nứt dọc.

Cây có rễ khí sinh không bị ngập, phát sinh từ rễ bên, cao 30cm, mọc lan xa cách gốc tới 6-7m. Cây rụng lá, có tán hình nón hẹp. Lá có 2 dạng, ở cành dinh dưỡng có hình dùi, dài 0,6-1,3cm, xếp thành 2-3 dãy và rụng vào mùa khô; ở cành sinh sản có hình vảy, dài 0,4cm và không rụng.

Nón đơn tính, cùng gốc, mọc riêng rẽ ở đầu cành. Nón cái hình quả lê, mỗi vảy mang 2 noãn. Sau khi thụ tinh các vảy hóa gỗ và dính nhau ở gốc tạo thành một nón dài 1,8cm, rộng 1,2cm với các vảy gần như liền nhau 7-9 mũi nhọn hình tam giác, hơi uốn cong ra phía ngoài. Mỗi vảy mang 2 hạt hình trứng, dài 13mm, rộng 3mm, mang cánh hướng xuống dưới.

Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 32/2006/NĐ-CP về quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý hiếm, trong đó nghiêm cấm chế biến kinh doanh vì mục đích thương mại sử dụng loài cây thủy tùng. Quỹ Quốc tế bảo tồn thiên nhiên (WWF) đã công bố thủy tùng là một trong những loài cây đang ở cấp độ “rất nguy cấp.”