Cách tiếp cận của ba nhà khoa học đã trở thành nền tảng, tạo ảnh hưởng rộng rãi sang các lĩnh vực khác và cách mạng hóa nghiên cứu thực nghiệm.
Nhiều câu hỏi lớn trong khoa học xã hội cần phải trả lời bằng việc chỉ ra mối quan hệ nhân - quả. Ví dụ như di cư ảnh hưởng đến mức lương và việc làm ở nơi đến như thế nào? Học vấn ảnh hưởng như thế nào đến thu nhập trong tương lai của một người? Những câu hỏi này rất quan trọng đối với việc đưa ra các khuyến nghị chính sách cho các nhà quản lý, vì có trả lời được thì nhà quản lý mới biết đưa ra các chính sách lương tối thiểu và hạn chế hoặc mở rộng cửa với người nhập cư thì sẽ có tác động như thế nào đến thị trường lao động. Hoặc ngay cả ở cấp độ cá nhân, thì người trẻ và cha mẹ họ cũng cần biết rằng tăng thêm một năm học thì sẽ làm tăng thu nhập trong tương lai như thế nào để đưa ra quyết định sẽ đầu tư vào việc học đến cấp nào thì đủ.
Nhưng các nhà nghiên cứu rất khó trả lời chính xác vì chúng ta không có được nhóm đối chứng hoàn hảo như trong nghiên cứu thí nghiệm. Chúng ta không biết điều gì sẽ xảy ra nếu có ít người nhập cư hơn hoặc một người không tiếp tục học, vì điều đó không xảy ra trong thực tế và không thể làm thí nghiệm để kiểm chứng các yếu tố tác động.
Từ những năm 1980, David Card chỉ ra rằng có thể trả lời những câu hỏi đó và những câu hỏi tương tự bằng “thí nghiệm tự nhiên” (natural experiments). Đây là một đóng góp nền tảng trong nghiên cứu kinh tế học để giải quyết các vấn đề xã hội: giáo dục, lao động nhập cư, bất bình đẳng. David Card sử dụng phương pháp thực nghiệm để phân tích các tác động của mức lương tối thiểu, người nhập cư và giáo dục đến thị trường lao động để đưa ra các phân tích mới. Ví dụ ông chứng minh bằng thực nghiệm cho các tranh cãi về việc tăng lương tối thiểu có dẫn tới hệ quả là giảm việc làm hay không, cũng như vai trò của lao động nhập cư. Hoặc là nhờ các chứng minh quan hệ nhân quả đó bằng thực nghiệm mà chúng ta nhận thấy rằng các nguồn lực cho giáo dục quan trọng với việc tham gia thị trường lao động sau này lớn hơn so với những gì chúng ta nghĩ trước đây.
Thực ra để đánh giá tác động với các dữ liệu thực nghiệm là rất khó. Ví dụ, việc kéo dài thời gian giáo dục bắt buộc thêm một năm đối với một nhóm học sinh này (chứ không phải nhóm học sinh khác) sẽ không ảnh hưởng đến tất cả mọi học sinh theo cùng một cách. Dù sao đi nữa, một số học sinh vẫn tiếp tục học tập và đối với họ, giá trị của giáo dục thường không mang tính đại diện cho toàn bộ nhóm. Vậy có thể rút ra kết luận nào về tác dụng của một năm học thêm ở trường? Vào giữa những năm 1990, Joshua Angrist và Guido Imbens đã phát triển thêm các phương pháp ước lượng trong kinh tế lượng, nhấn mạnh tính nhân quả của nó, làm sáng tỏ về ước lượng biến công cụ (instrumental variable) trong đánh giá tác động của các nhân tố và chính sách trong kinh tế.
“Các nghiên cứu của Card về các câu hỏi cốt lõi đối với xã hội, còn những đóng góp về phương pháp luận của Angrist và Imbens đã chỉ ra rằng các thí nghiệm tự nhiên là một nguồn kiến thức phong phú. Nghiên cứu của họ đã cải thiện đáng kể khả năng của chúng ta trong việc trả lời các câu hỏi quan trọng về nhân quả, mang lại lợi ích to lớn cho xã hội”, Peter Fredriksson, Chủ tịch Ủy ban Giải thưởng Nobel Kinh tế cho biết.
Đo lường tác động của lao động di cư
Nghiên cứu của David Card đã phân tích vai trò của di cư từ Cuba vào Miami, Mỹ từ những năm 1980. Hồi đó, làn sóng di cư này đã mang đến khoảng 125 nghìn người, làm tăng 8% lực lượng lao động ở Miami (trong khi đó, việc nhập cư bình thường vào Mỹ làm tăng lực lượng lao động trên toàn quốc khoảng 0,3% mỗi năm) và dấy lên lo ngại sẽ cạnh tranh lấy bớt việc làm của người lao động bản xứ, làm mức lương của người bản xứ giảm xuống.
Với những tính toán dựa vào số liệu khảo sát trên toàn quốc, nghiên cứu của David Card cho thấy không có sự khác biệt về tiền lương hoặc xu hướng việc làm giữa Miami - nơi tràn ngập lao động kỹ năng thấp nhập cư với các thành phố khác và kết luận rằng “việc nhập cư về cơ bản không ảnh hưởng đến tiền lương hoặc kết quả việc làm của những người lao động bản xứ tại thị trường lao động Miami”.
Về sau này bài báo của David Card đã trở thành bài báo được trích dẫn nhiều nhất trong nghiên cứu về kinh tế học nhập cư. Và cho đến tận bây giờ, những vấn đề mà ông đặt ra vẫn còn nguyên tính thời sự. Câu hỏi người nhập cư từ các nước nghèo có tranh giành việc làm của người lao động bản xứ, có gây gánh nặng cho nơi nhập cư không vẫn là câu hỏi thường trực đối với các nhà hoạch định chính sách. Thông thường người ta vẫn nghĩ là “có” và phải có các chính sách siết nhập cư. Nhưng trên thực tế, theo dõi trong một thời gian đủ dài, với dữ liệu đủ lớn sẽ cho thấy người lao động nhập cư đóng góp vào sự thịnh vượng của nơi đến. Một bằng chứng chỉ ra điều đó, chẳng hạn, theo báo cáo của New American Economy, những người nhập cư hoặc con cái của họ đã thành lập 40% trong danh sách Fortune 500, gồm 500 công ty lớn nhất của nước Mỹ.
Một đóng góp quan trọng nữa của David Card là nghiên cứu về mức lương tối thiểu. Các nhà làm chính sách vẫn phải cân nhắc về việc có nên tăng mức lương tối thiểu hay không, vì có thể điều đó sẽ khiến “trả giá” bằng việc doanh nghiệp phải tăng lương và cắt giảm lao động.
Năm 1992, khi bang New Jersey của Mỹ đã tăng mức lương tối thiểu lên mức cao nhất trong cả nước, còn bang Pennsylvania không tăng lương thì David Card cùng Alan Krueger mới có cơ hội so sánh tác động của chính sách này. Hai ông khảo sát công việc phục vụ nhà hàng thức ăn nhanh ở cả hai bang và nhận thấy rằng số lượng công việc ở New Jersey tăng lên còn ở Pennsylvania thì giảm đi. Một nghiên cứu vào năm 2021 đã cho thấy xu hướng ủng hộ việc tăng lương tối thiểu đã ảnh hưởng tới các tổ chức như Quỹ Tiền tệ quốc tế IMF hay OECD, và nghiên cứu của Card và Kreuger là “trung tâm của sự thay đổi quan điểm này”.
Tổng hợp từ Vox, Marketwatch |
TS. Nguyễn Việt Cường (Khoa Quốc tế, ĐH Quốc gia Hà Nội) hiệu đính
Nguồn: Thông cáo báo chí của Ủy ban giải thưởng Nobel